TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 81/2024/HC-PT NGÀY 29/01/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 29 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số: 677/2023/TLPT-HC ngày 05 tháng 10 năm 2023 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 10/2023/HC-ST ngày 07 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 87/2024/QĐ-PT ngày 05 tháng 01 năm 2024; giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Phạm Thanh H, sinh năm 1971; địa chỉ: Ấp Tân H, xã An Nh, huyện Châu Th, tỉnh Đ, (có mặt);
Người đại diện theo ủy quyền của Ông Phạm Thanh H (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 17/5/2023): Bà Võ Kim A, sinh năm 1963; địa chỉ: Ấp Phú Th, xã Phú H, huyện Châu Th, tỉnh Đ, (có mặt).
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân huyện Châu Th, tỉnh Đ;
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Th, tỉnh Đ;
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện (theo các Giấy ủy quyền ngày 24/11/2022 và ngày 19/7/2023): Ông Phan Thanh D – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Châu Th, (xin vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Hoàng H1 – Phó trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Châu Th, tỉnh Đ, (có mặt);
Cùng địa chỉ: Số 80, Quốc lộ 80, khóm Phú M, thị trấn H, huyện Châu Th, tỉnh Đ.
- Người kháng cáo: Người khởi kiện Ông Phạm Thanh H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện Ông Phạm Thanh H và người đại diện theo ủy quyền của ông H là Bà Võ Kim A trình bày:
Ngày 28/10/2019, Ủy ban nhân dân huyện Châu Th, tỉnh Đ (sau đây viết và gọi tắt là UBND huyện Châu Th) ban hành Quyết định số 1908/QĐ-UBND về việc đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu Nguyễn Huệ. Đến ngày 08/02/2021, UBND tỉnh Đ ban hành Quyết định số 24/QĐ-UBND-NĐ về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2021 của huyện Châu Th.
Ngày 13/9/2021, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 1160/QĐ-UBND về việc thu hồi 445,2m2 đất (CLN) của Ông Phạm Thanh H thuộc một phần thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, tọa lạc tại xã An Nh, huyện Châu Th, tỉnh Đ để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu Nguyễn Huệ.
Sau đó, đến ngày 17/9/2021, UBND huyện Châu Th tiếp tục ban hành Quyết định số 1206/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ (bổ sung lần 2) đối với Ông Phạm Thanh H để thực hiện dự án nêu trên.
Theo các quyết định nêu trên, diện tích đất thu hồi của gia đình ông H là 445,2m2, áp giá đền bù là 415.000đ/m2, thành tiền là 184.758.000 đồng + tiền bồi thường cây trồng và vật kiến trúc trên đất là 24.301.000 đồng.
Với mức giá đền bù nêu trên là quá thấp, gây thiệt hại lớn cho gia đình ông H. Tại vị trí đất ông H bị thu hồi vào ngày 17/4/2021, ông Nguyễn Thanh X và bà Huỳnh Thị Mỹ T ngụ tại khóm M, thị trấn H, huyện Châu Th, tỉnh Đ có chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh Hùng ngụ tại khóm Phú M Hiệp, thị trấn H, huyện Châu Th, tỉnh Đ với diện tích 734m2 gồm đất thổ và cây lâu năm với số tiền là 1.468.000.000 đồng. Theo đó, trung bình giá 01m2 đất khoảng 2.000.000 đồng.
Như vậy, tại thời điểm thu hồi đất của gia đình Ông Phạm Thanh H, UBND huyện Châu Th chỉ đền bù cho gia đình ông H 01m2 đất với giá 415.000đ/1m2, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho gia đình ông, không đúng với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc thu hồi đất và Quyết định số 1206/QĐ-UBND ngày 17/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc bồi thường, hỗ trợ (bổ sung lần 2) cho ông H.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Bà Võ Kim A là người đại diện theo ủy quyền của ông H trình bày: Việc thu hồi, bồi thường của UBND huyện Châu Th, là không phù hợp, chưa thỏa đáng, không đảm bảo quyền lợi của ông H, yêu cầu phải giải quyết thỏa đáng quyền lợi cho ông H, tránh việc khiếu nại về sau, yêu cầu bồi thường cho ông H theo mức 2.000.000đồng/m2. Yêu cầu Hội đồng xét xử sơ thẩm giải quyết hủy các quyết định: Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc thu hồi đất; Quyết định số 1206/QĐ-UBND ngày 17/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc bồi thường, hỗ trợ (bổ sung lần 2) đối với ông H; Quyết định số 294/QĐ-CC ngày 08/4/2022 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông H; Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 03/12/2021 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc giải quyết khiếu nại của ông H.
- Theo Văn bản ý kiến số 5594/UBND-NC ngày 13/12/2022 của UBND huyện Châu Th và Văn bản ý kiến số 3000/UBND-HC ngày 04/7/2023 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th, người bị kiện trình bày:
Ngày 28/10/2019, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 1908/QĐ-UBND về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ.
Ngày 10/12/2019, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 2033/QĐ-UBND về việc giao quyền chủ đầu tư dự án Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ.
Ngày 12/02/2020, UBND tỉnh Đ ban hành Quyết định số 17/QĐ-UBND-NĐ về việc phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2020 huyện Châu Th.
Ngày 13/3/2020, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 192/QĐ-UBND về việc phê duyệt kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, bồi thường dự án đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ.
Ngày 06/4/2020, UBND tỉnh Đ ban hành Công văn số 206/UBND-KT về việc ủy quyền cho UBND huyện Châu Th thông báo và thu hồi đất.
Ngày 23/4/2020, UBND huyện Châu Th ban hành Thông báo số 40/TB- UBND về việc thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án.
Ngày 29/4/2020, Ban Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất huyện Châu Th phối hợp UBND xã An Nh đã tiến hành điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm để bồi thường đối với Ông Phạm Thanh H.
Ngày 26/6/2020, UBND tỉnh Đ ban hành Quyết định số 120/QĐ-UBND-NĐ phê duyệt đơn giá đất cụ thể làm cơ sở lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ.
Ngày 23/10/2020, UBND tỉnh Đ có Công văn số 898/UBND- KT về giá bồi thường đối với cây sầu riêng, cây nhãn.
Ngày 03/8/2021, UBND huyện Châu Th có Công văn số 3319/UBND- KTN về việc đính chính Thông báo thu hồi đất số 40/TB-UBND ngày 23/4/2020, lý do: Ông Phạm Thanh H nhận thừa kế quyền sử dụng đất của ông Phạm Văn Th, số vào số cấp giấy chứng nhận: CS06392, cấp ngày 22/7/2021.
Ngày 13/9/2021, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 1160/QĐ-UBND về việc thu hồi đất với diện tích 445,2m2 đất trồng cây lâu năm, thuộc một phần thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, đất tọa lạc xã An Nh đối với Ông Phạm Thanh H.
Ngày 13/9/2021, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 1165/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (bổ sung lần 2) để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ.
Ngày 17/9/2021, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 1206/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ đối với Ông Phạm Thanh H với tổng số tiền là 323.192.200 đồng.
Ông Phạm Thanh H đã nhận tiền bồi thường, hỗ trợ với tổng giá trị:
323.192.200 đồng.
+ Về khiếu nại liên quan lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ và tái định cư:
Ngày 16/3/2021, UBND huyện Châu Th có tiếp nhận đơn khiếu nại của Ông Phạm Thanh H yêu cầu nâng giá bồi thường đất theo giá thị trường từ 2,5 triệu đồng/m2 đến 03 triệu đồng/m2 và giải quyết 02 nền tái định cư.
Ngày 07/4/2021, các ngành chức năng của huyện Châu Th mời tiếp xúc với Ông Phạm Thanh H và bà Phạm Thị Ngọc A (con của ông Phạm Văn Th). Tại buổi làm việc các ngành ghi nhận ý kiến ông H và hướng dẫn ông bổ sung văn bản ủy quyền theo quy định.
Ngày 22/7/2021, Ông Phạm Thanh H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS06392, thửa đất 169, tờ bản đồ số 31, mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm (nhận thừa kế quyền sử dụng đất của ông Phạm Văn Th).
Ngày 21/9/2021, Ban Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất phối hợp với UBND xã An Nh tiếp xúc, vận động Ông Phạm Thanh H nhận tiền bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, ông H chưa đồng ý nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và vẫn khiếu nại yêu cầu Nhà nước nâng giá bồi thường, hỗ trợ đất lên 2.000.000 đồng/m2 hoặc đổi đất khác cho ông. Đồng thời, hỗ trợ thêm nếu thi công khi cây trồng (nhãn) đang cho trái và giải quyết 03 nền tái định cư cho gia đình ông H.
Ngày 18/10/2021, UBND huyện Châu Th ban hành Thông báo số 160/TB-UBND về việc thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu của ông H.
Ngày 03/12/2021, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 16/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông H.
+ Về công tác giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án:
Ngày 17/02/2022, UBND xã An Nh, Đoàn thể xã và các ngành chức năng huyện Châu Th tiếp xúc, vận động Ông Phạm Thanh H nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án. Tuy nhiên, ông H không đồng ý bàn giao mặt bằng.
Ngày 08/4/2022, Chủ tịch UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 294/QĐ-CC về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với Ông Phạm Thanh H.
Ngày 14/4/2022, Chủ tịch UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 317/QĐ-UBND về việc thành lập Ban thực hiện cưỡng chế thi hành Quyết định thu hồi đất (gọi là Ban cưỡng chế).
Ngày 05/5/2022, Ban cưỡng chế đã tổ chức vận động Ông Phạm Thanh H thực hiện quyết định thu hồi đất và bàn giao mặt bằng nhưng ông H chưa đồng ý bàn giao mặt bằng để thi công dự án.
Qua buổi vận động thực hiện quyết định thu hồi đất, đến ngày 09/5/2022 Ông Phạm Thanh H đồng ý bàn giao mặt bằng để thi công dự án.
+ Về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai:
Ngày 16/11/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Đ có Thông báo số 45/2022/TLST-HC thông báo về việc thụ lý vụ án, nội dung người khởi kiện là Ông Phạm Thanh H yêu cầu hủy Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 và Quyết định số 1206/QĐ-UBND ngày 17/9/2021 của UBND huyện Châu Th. Tại phiên tòa sơ thẩm, người khởi kiện yêu cầu hủy thêm Quyết định số 294/QĐ-CC ngày 08/4/2022 và Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 03/12/2021 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th.
+ Ý kiến của UBND huyện Châu Th, Chủ tịch UBND huyện Châu Th:
Căn cứ vào Luật Đất đai năm 2013; Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 27/2014/QĐ-UBND ngày 27/11/2014 của UBND tỉnh Đ Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đ; UBND huyện Châu Th, Chủ tịch UBND huyện Châu Th đã ban hành các Quyết định nêu trên là đúng theo quy định của pháp luật. Đề nghị giữ nguyên các quyết định: Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc thu hồi đất; Quyết định số 1206/QĐ-UBND ngày 17/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc bồi thường, hỗ trợ; Quyết định số 294/QĐ-CC ngày 08/4/2022 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc cưỡng chế thu hồi đất; Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 03/12/2021 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc giải quyết khiếu nại của Ông Phạm Thanh H.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 10/2023/HC-ST ngày 07/8/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Đ đã quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện của Ông Phạm Thanh H đối với yêu cầu hủy các Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc thu hồi đất, Quyết định số 1206/QĐ-UBND ngày 17/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc bồi thường, hỗ trợ đối với ông H, Quyết định số 294/QĐ-CC ngày 08/4/2022 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông H, Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 03/12/2021 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc giải quyết khiếu nại của ông H.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí hành chính và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 18/8/2023, người khởi kiện Ông Phạm Thanh H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người khởi kiện Ông Phạm Thanh H xác định kháng cáo của ông H là yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày với nội dung: Các quyết định hành chính bị khiếu kiện đã được người bị kiện ban hành đúng pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của Ông Phạm Thanh H, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát:
Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng giải quyết vụ án đúng theo quy định pháp luật; các đương sự chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện Ông Phạm Thanh H: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và quyết định bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ông Phạm Thanh H là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ của vụ án, có căn cứ và đúng pháp luật.
Người khởi kiện Ông Phạm Thanh H kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào mới nên không có cơ sở để chấp nhận. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông H, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Đơn kháng cáo của người khởi kiện Ông Phạm Thanh H nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của Luật Tố tụng hành chính nên hợp lệ, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong Hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về việc tiến hành tố tụng giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm:
Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định và thực hiện đúng theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
[2] Về nội dung yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện Ông Phạm Thanh H, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;
[2.1] Về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành các quyết định hành chính bị khiếu kiện.
[2.1a] Trong vụ án này, người khởi kiện Ông Phạm Thanh H yêu cầu Tòa án hủy các quyết định hành chính, gồm: Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc thu hồi 445,2m2 đất trồng cây lâu năm của ông H thuộc một phần thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, tọa lạc tại xã An Nh, huyện Châu Th, tỉnh Đ để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ (sau đây gọi tắt là Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 của UBND huyện Châu Th hoặc Quyết định số 1160/QĐ-UBND); Quyết định số 1206/QĐ-UBND ngày 17/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc bồi thường, hỗ trợ (bổ sung lần 2) để thực hiện dự án nêu trên đối với ông H (sau đây gọi tắt là Quyết định số 1206/QĐ-UBND ngày 17/9/2021 của UBND huyện Châu Th hoặc Quyết định số 1206/QĐ-UBND); Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 03/12/2021 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc giải quyết khiếu nại của ông H (sau đây gọi tắt là Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 03/12/2021 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th hoặc Quyết định số 16/QĐ-UBND); Quyết định số 294/QĐ-CC ngày 08/4/2022 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với Ông Phạm Thanh H do ông H không chấp hành Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc thu hồi 445,2m2 đất trồng cây lâu năm của ông H thuộc một phần thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, tọa lạc tại xã An Nh, huyện Châu Th, tỉnh Đ để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ (sau đây gọi tắt là Quyết định số 294/QĐ-CC ngày 08/4/2022 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th hoặc Quyết định số 294/QĐ-CC).
[2.1b] Đối với Quyết định số 1160/QĐ-UBND và Quyết định số 1206/QĐ-UBND, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, các quyết định này được UBND huyện Châu Th ban hành đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định tại các Điều 66, 67, 68, 69, 74 74, 75, 83, 84 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai; Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai; Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng, thu hồi đất; Quyết định số 27/2014/QĐ-UBND ngày 27/11/2014 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy định về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đ; Quyết định số 37/2016/QĐ- UBND ngày 25/7/2016 của UBND tỉnh Đ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 27/2014/QĐ-UBND ngày 27/11/2014 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy định về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đ.
[2.1c] Đối với Quyết định số 16/QĐ-UBND, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, quyết định này được Chủ tịch UBND huyện Châu Th ban hành đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định tại các Điều 27, 29, 30, 31, 32 của Luật Khiếu nại năm 2011; các Điều 5, 6, 7, 11, 18, 21 của Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ về Quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính. Tuy nhiên, quá trình ban hành Quyết định số 16/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện Châu Th là quá thời hạn giải quyết khiếu nại theo quy định tại Điều 28 của Luật Khiếu nại năm 2011 nên Chủ tịch UBND huyện Châu Th cần phải rút kinh nghiệm khắc phục vi phạm này đối với những trường hợp về sau.
[2.1d] Đối với Quyết định số 294/QĐ-CC, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy, quyết định này được Chủ tịch UBND huyện Châu Th ban hành đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định tại Điều 71 của Luật Đất đai 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai; Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai; Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng, thu hồi đất.
[2.2] Về nội dung các quyết định hành chính bị khiếu kiện.
[2.2.1] Ngày 22/7/2021, Ông Phạm Thanh H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận: CS06392, thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm (nhận thừa kế quyền sử dụng đất của ông Phạm Văn Th). Tại Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021, UBND huyện Châu Th thu hồi 445,2m2 đất của ông H và diện tích khi thu hồi được xác định là đất trồng cây lâu năm thuộc một phần thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, tọa lạc tại xã An Nh, huyện Châu Th, tỉnh Đ, là phù hợp về loại đất (mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm) ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên, có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[2.2.2] Tại khoản 2 Điều 74 của Luật Đất đai 2013 quy định: “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất”. Vì vậy, Hồ sơ vụ án thể hiện, UBND tỉnh Đ đã thuê Công ty trách nhiệm hữu hạn Thẩm định giá Tây Nam là đơn vị tư vấn độc lập để khảo sát thẩm định giá trị đất bằng Chứng thư định giá đất số 20/04/249/TS-SVC ngày 23/4/2020. Trên cơ sở Chứng thư, Hội đồng thẩm định giá tỉnh Đ đã họp xem xét, đồng thời Giám đốc Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Đ đã có Tờ trình số 380/TTr-STNMT ngày 22/6/2020 trình cho UBND tỉnh Đ phê duyệt giá đất. Theo đó, UBND tỉnh Đ đã ban hành Quyết định số 120/QĐ-UBND-NĐ ngày 26/6/2020 phê duyệt đơn giá đất cụ thể làm cơ sở lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với dự án công trình Tuyến nối đường vào cầu Nguyễn Huệ và từ đó UBND huyện Châu Th ban hành Phương án số 17/PABS-BQLDA&PTQĐ để bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (bổ sung lần 2) và Quyết định số 1165/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (bổ sung lần 2) để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ. Theo các văn bản này và tại Bảng chi tiết giá trị bồi thường, hỗ trợ (bổ sung lần 2) xác định:
[2.2.2a] Phần đất của ông H tranh chấp là đất trồng cây lâu năm thuộc (Khu vực 1), trong phạm vi 50m tiếp giáp đường Sông Tiền thuộc (Vị trí 2), giá bồi thường đất là 415.000 đồng/1m2 (theo Quyết định số 120/QĐ-UBND-NĐ ngày 26/6/2020 của UBND tỉnh Đ về phê duyệt đơn giá đất cụ thể làm cơ sở lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình tuyến nối đường vào cầu và đền bù giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ); Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp bằng 3 lần giá đất trồng cây lâu năm là 85.000 đồng/1m2 (85.000 đồng/1m2 x 3 = 255.000 đồng/1m2 (theo Quyết định số 36/QĐ-UBND ngày 19/12/2019 của UBND tỉnh Đ về Bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh 05 năm 2020-2024).
[2.2.2b] Đối với giá cây trồng: (nhãn, sầu riêng) và các loại cây khác bồi thường theo giá được phê duyệt bồi thường và Công văn 898/UBND-KT ngày 23/10/2020, Quyết định số 04/2019/QĐ-UBND ngày 26/02/2019 của UBND tỉnh Đ ban hành quy định về giá bồi thường cây trồng, vật nuôi là thủy sản khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đ.
[2.2.2c] Việc yêu cầu bố trí nền tái định cư: Do là đất trồng cây lâu năm, không có nhà nên không có căn cứ để xem xét.
[2.2.2d] Từ những tài liệu, căn cứ nêu trên nhận thấy, UBND huyện Châu Th ban hành Quyết định số 1206/QĐ-UBND bồi thường, hỗ trợ cho Ông Phạm Thanh H với tổng số tiền là 323.192.200 đồng, trong đó bồi thường về đất với số tiền 184.758.000 đồng (445,2m2 đất trồng cây lâu năm x 415.000 đồng/1m2) là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Ông Phạm Thanh H đã nhận đủ tiền bồi thường, hỗ trợ với tổng giá trị: 323.192.200 đồng.
[2.2.2đ] Trong quá trình giải quyết vụ án, Ông Phạm Thanh H và người đại diện theo ủy quyền của ông H là Bà Võ Kim A cho rằng, tại thời điểm thu hồi đất của gia đình ông H, UBND huyện Châu Th chỉ đền bù cho gia đình ông H 1m2 đất với giá là 415.000đ/1m2 là quá thấp, gây thiệt hại lớn về kinh tế cho gia đình ông H, không đúng với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì tại vị trí đất ông H bị thu hồi, vào ngày 17/4/2021, ông Nguyễn Thanh X và bà Huỳnh Thị Mỹ T có chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh Hùng diện tích đất 734m2 với tổng số tiền là 1.468.000.000 đồng, trung bình giá 1m2 đất khoảng 2.000.000 đồng, nên yêu cầu Tòa án lấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các đương sự này là căn cứ buộc người bị kiện bồi thường cho ông H theo mức giá 2.000.000 đồng/m2 theo giá thị trường. Xét thấy, phần đất của ông H bị thu hồi không có đất thổ cư, toàn bộ là đất trồng cây lâu năm thuộc (Khu vực 1), trong phạm vi 50m tiếp giáp đường Sông Tiền thuộc (Vị trí 2), giá bồi thường đất là 415.000 đồng/1m2 (theo Quyết định số 120/QĐ-UBND-NĐ ngày 26/6/2020 của UBND tỉnh Đ về phê duyệt đơn giá đất cụ thể làm cơ sở lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ); trong khi đó, phần đất 734m2 của ông X và bà T chuyển nhượng cho ông Hùng trong đó có đất thổ, không rõ vị trí và giá chuyển nhượng do hai bên tự thỏa thuận, nên trình bày của Ông Phạm Thanh H và người đại diện theo ủy quyền của ông H là Bà Võ Kim A yêu cầu Tòa án lấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các đương sự này là căn cứ buộc người bị kiện bồi thường cho ông H theo mức giá 2.000.000 đồng/m2, là không có cơ sở để chấp nhận.
Đồng thời, Ông Phạm Thanh H và người đại diện theo ủy quyền của ông H là Bà Võ Kim A cho rằng, tại Chứng thư Thẩm định giá ngày 17/4/2023 của Công ty Cổ phần Tư vấn đầu tư và Thẩm định giá S thể hiện kết quả định giá đất thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm, có đơn giá là 2.027.000đ/1m2, để từ đó yêu cầu Tòa án buộc người bị kiện bồi thường cho ông H theo mức giá 2.000.000 đồng/m2, cũng không có cơ sở để chấp nhận. Vì Công ty Cổ phần Tư vấn đầu tư và Thẩm định giá S lập Chứng thư Thẩm định giá ngày 17/4/2023 đối với thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, là theo yêu cầu của ông H, được thực hiện vào năm 2023, sau thời điểm đã thực hiện dự án, đất đã thu hồi và bồi thường xong nên không có đủ cơ sở để xem xét. Hơn nữa, việc ông H tự yêu cầu Công ty Cổ phần Tư vấn đầu tư và Thẩm định giá S lập Chứng thư Thẩm định giá đối với thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, để lấy làm căn cứ yêu cầu người bị kiện bồi thường đối với diện tích đất bị thu hồi là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 74 của Luật Đất đai 2013.
[2.2.3] Đối với Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 03/12/2021 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc giải quyết khiếu nại của ông H và Quyết định số 294/QĐ-CC ngày 08/4/2022 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với Ông Phạm Thanh H do ông H không chấp hành Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13/9/2021 của UBND huyện Châu Th về việc thu hồi 445,2m2 đất trồng cây lâu năm của ông H thuộc một phần thửa đất số 169, tờ bản đồ số 31, tọa lạc tại xã An Nh, huyện Châu Th, tỉnh Đ để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình Tuyến nối đường vào cầu và đền bù, giải phóng mặt bằng cầu Nguyễn Huệ, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy;
Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định, Quyết định số 16/QĐ-UBND và Quyết định số 294/QĐ-CC được Chủ tịch UBND huyện Châu Th ban hành có căn cứ, là đúng.
[3] Từ những nhận định và căn cứ nêu trên xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và quyết định bác yêu cầu khởi kiện của Ông Phạm Thanh H là có căn cứ, đúng pháp luật. Kháng cáo của người khởi kiện Ông Phạm Thanh H là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận ý kiến, quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo của ông H; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[4] Những ý kiến, quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm nêu trên nên được chấp nhận.
[5] Về án phí hành chính phúc thẩm;
Đương sự kháng cáo Ông Phạm Thanh H phải nộp án phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính.
1- Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện Ông Phạm Thanh H;
giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số: 10/2023/HC-ST ngày 07/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ:
Căn cứ vào Điều 30, Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều 157, khoản 1 Điều 158, Điều 193, khoản 1 Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ vào các Điều 62, 66, 67, 68, 69, 71, 74, 75, 83, 84 của Luật Đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 18, các Điều 27, 28, 29, 30, 31, 32 của Luật Khiếu nại năm 2011;
Căn cứ vào Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai; Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai; Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường Quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng, thu hồi đất; các Điều 5, 6, 7, 11, 18, 21 của Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ về Quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính;
Căn cứ vào Quyết định số 27/2014/QĐ-UBND ngày 27/11/2014 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy định về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đ; Quyết định số 37/2016/QĐ-UBND ngày 25/7/2016 của UBND tỉnh Đ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 27/2014/QĐ-UBND ngày 27/11/2014 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy định về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đ; Quyết định số 04/2019/QĐ-UBND ngày 26/02/2019 của UBND tỉnh Đ về việc ban hành quy định về bồi thường cây trồng, vật nuôi là thủy sản khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đ;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số: 326/2016/TUBTQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1.1. Bác yêu cầu khởi kiện của Ông Phạm Thanh H đối với yêu cầu hủy các quyết định hành chính: Quyết định số 1160/QĐ-UBND ngày 13 tháng 9 năm 2021 của UBND huyện Châu Th, tỉnh Đ về việc thu hồi đất; Quyết định số 1206/QĐ-UBND ngày 17 tháng 9 năm 2021 của UBND huyện Châu Th, tỉnh Đ về việc bồi thường, hỗ trợ đối với Ông Phạm Thanh H; Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 03 tháng 12 năm 2021 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th, tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của Ông Phạm Thanh H; Quyết định số 294/QĐ-CC ngày 08 tháng 4 năm 2022 của Chủ tịch UBND huyện Châu Th, tỉnh Đ về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với Ông Phạm Thanh H.
1.2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Phạm Thanh H phải chịu 300.000 đồng; nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0014088 ngày 10/11/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đ; ông H đã nộp đủ án phí hành chính sơ thẩm.
2- Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Phạm Thanh H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng; nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số: 0014230 ngày 25/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đ; ông H đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án là ngày 29 tháng 01 năm 2024.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 81/2024/HC-PT
Số hiệu: | 81/2024/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 29/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về