Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 789/2022/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 789/2022/HC-PT NGÀY 22/09/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 22 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 303/2022/TLPT-HC ngày 14 tháng 6 năm 2022 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 31/2022/HC-ST ngày 15 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1285/2022/QĐ-PT ngày 05 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 141/2022/QĐ-PT ngày 30 tháng 8 năm 2022; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1635/2022/QĐ-PT ngày 30 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện:

1. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1953 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số 53, đường P, Phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

2. Bà Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1957 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số 06, đường Đ, Phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

3. Bà Nguyễn Thị Bích L, sinh năm 1959 (xin xét xử vắng mặt);

Địa chỉ: Số 57, đường P, Phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Vũ Quang V1– Luật sư Văn phòng Luật sư C và cộng sự, chi nhánh Vũng Tàu, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).

- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Dương Văn T – Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố V (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lê Thị C1, sinh năm 1934 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số 10A, đường C2, Phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thanh T1, sinh năm 1986 (Theo Giấy ủy quyền ngày 19/01/2021) (có mặt);

Địa chỉ: Số 10A, đường C2, Phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Nguyễn Danh L1– Luật sư Công ty Luật TNHH MTV L2, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).

- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Bích L là người khởi kiện.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Bích N, Nguyễn Thị Bích L và tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn T2 đại diện trình bày:

Năm 1975 ông (bà) Nguyễn C3 và Lê Thị C3 có khai phá một thửa đất diện tích khoảng 6.000m2 tại Phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Có tứ cận: Đông giáp đất ông N1, Tây giáp đất bà H1, Nam giáp đất ông N2, Bắc giáp đất bà L3. Năm 1989 do phần đất phía Đông Bắc khoảng 1.000m cao nên không trồng lúa được, ông C3 có làm đơn xin san mặt bằng để đào ao, trồng lúa được Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) Phường 11 chấp nhận, năm 1993 Nhà nước đo đạc bản đồ giải thửa, gia đình ông C3 không ra chỉ ranh mà chỉ ra UBND Phường làm thủ tục đăng ký theo thông báo của Phường. Năm 2001 gia đình ông C3 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy ghi diện tích, số tờ, số thửa nhưng không có sơ đồ vị trí kèm theo nên gia đình ông C3 không biết còn một phần diện tích nằm ngoài Giấy chứng nhận đã cấp. Năm 2002, Nhà nước làm đường ven Biển, có thu hồi một ít, ông C3 không được bồi thường nhưng không khiếu nại vì cho rằng đất được ra mặt tiền, nên không cần bồi thường. Do phần đất đào ao, trồng lúa thấp hơn đường nên ông C3 thuê ông Trịnh Minh H2 đổ khoảng 100 xe đất giáp mặt đường. Năm 2006 ông C3 chết không để lại di chúc, năm 2010 bà C3 chết cũng không để lại di chúc. Các con của ông C3, bà C3 vẫn sử dụng thửa đất này. Năm 2016 không hiểu vì lý do gì bà C1 làm đơn tranh chấp 470,8m2 đất với gia đình ông C3, bà C3. UBND Phường 12 tiến hành thủ tục giải quyết. Ngày 25/6/2019 Chủ tịch UBND thành phố V ban hành Quyết định giải quyết tranh chấp số 2961/2019/QĐ-UBND công nhận cho bà Lê Thị C1 được quyền sử dụng 470,8m2 đất.

Việc Chủ tịch UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2961/QĐ- UBND giải quyết công nhận cho bà C1 470,8m2 đất thuộc thửa số 10, tờ bản đồ số 31, Phường 12, thành phố V là không đúng quy định của pháp luật. Khi giải quyết tranh chấp, đo đạc, xác minh đất không mời gia đình ông, bà C3, giải quyết không khách quan, vi phạm Điều 202, 203 Luật Đất đai và Điều 88, 89 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình ông, bà C3. Yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 2961/QĐ- UBND giải quyết tranh chấp đất của Chủ tịch UBND thành phố V.

Chủ tịch UBND thành phố V và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trình bày:

Về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất:

Theo xác nhận của UBND Phường 12, toàn bộ 470,8m2 đất tranh chấp có nguồn gốc của bà L3 sử dụng trước năm 1975 trong tổng số 8.889m2, có Biên bản đo đạc vị trí phần đất và xác nhận của Ty điền địa Vũng Tàu năm 1972. Sau đó, bà C1 đến ở cùng bà Đ, năm 1977 bà C1 kê khai được UBND phường P xác nhận. Năm 1990 bà Đ chết, từ đó bà C1 tiếp tục sử dụng cho đến nay. Năm 2002, Nhà nước làm đường ven Biển, bà C1 được bồi thường diện tích 566,8m2, đất còn lại của bà C1 bị chia làm 2 phần. Năm 2014, bà C1 làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ký giáp ranh, gia đình ông C3 không ký nên phần đất bên kia đường không cấp Giấy được, phần còn lại 7.962,4m2 bà C1 đã được UBND cấp Giấy chứng nhận.

Theo sơ đồ địa chính năm 1993, vị trí đất tranh chấp thuộc thửa số 10 (mới 161), tờ bản đố số 31 (mới 60) với diện tích 2.813m2 loại đất “Điều” do bà Lê Thị C1 sử dụng. Do đó, UBND thành phố V công nhận cho bà C1 là đúng quy định của pháp luật.

Về thủ tục giải quyết tranh chấp:

Sau khi có đơn tranh chấp đất của bà C1với gia đình ông, bà C3. Chủ tịch UBND Phường 12, đã tiến hành hòa giải nhưng không thành nên chuyển toàn bộ hồ sơ lên Chủ tịch UBND thành phố V, Chủ tịch UBND thành phố V giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố V mời các đương sự lên làm việc. Tuy nhiên, bà H, bà N, bà L(các con của ông, bà C3) không đến, chỉ có đại diện của bà C1.

Do đại diện của gia đình ông, bà C3 không đến nên ngày 22/02/2018 Phòng Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với Phường 12 tiến hành đo vẽ. Tuy nhiên, đại diện gia đình ông, bà C3 không tham gia và cũng không có lý do. Trên cơ sở kết quả đo đạc, ngày 10/5/2019 Phòng Tài nguyên và Môi trường tiến hành hòa giải giữa các đương sự, tuy không trực tiếp tham gia đo vẽ, nhưng tại buổi hòa giải đại diện của gia đình ông, bà C3 đã được xem sơ đồ vị trí đo vẽ và không khiếu nại về việc đo vẽ. Do bà C1 và đại diện gia đình ông, bà C3 không thống nhất được với nhau, trên cơ sở hồ sơ địa chính do UBND Phường 12 quản lý và các chứng cứ khác mới thu thập được, căn cứ vào các quy định của pháp luật, Chủ tịch UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2961/QĐ- UBND giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà C1với gia đình ông, bà C3. Theo đó, công nhận cho bà C1 được quyền sử dụng 470,8m2 thuộc thửa số 10 (số mới 161), tờ bản đồ số 31 (mới 60) tọa lạc tại đường Ven Biển, Phường 12, thành phố V cho bà C1là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà H, bà L, bà N (gia đình ông, bà C3).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị C1 do người đại diện theo ủy quyền là ông Lê Thanh T1 trình bày:

Diện tích đất bà C1 đang tranh chấp 470,8m2 có nguồn gốc nằm trong tổng diện tích đất 8.888,9m2 do bà L3 khai phá và sử dụng từ năm 1972 được trắc địa sư đo đạc lập họa đồ vị trí ngày 04-7-1972.

Sau khi khai phá đất, bà C1đã đến sinh sống cùng với bà Đ tại đất bà Đ khai phá từ năm 1975. Năm 1977, bà C1đã kê khai đăng ký nhà ở và được UBND phường P cấp giấy xác nhận đã kê khai đăng ký nhà số 83 ngày 30-12- 1997 diện tích xây dựng 28m2. Năm 1990, bà Đ chết. Sau khi bà Đ chết thì bà C1tiếp tục sử dụng diện tích đất. Bà Đ không có chồng, không có con.

Năm 2014, bà C1 làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, khi làm thủ tục ký giáp ranh, ông Nguyễn C3(là người có đất giáp ranh) đã không đồng ý ký tên vì cho rằng thửa đất bà C1xin cấp giấy nằm trong thửa 153, tờ bản đồ số 31 thuộc đất mà gia đình ông C3đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ngày 21-10-2016, bà C1 đã được UBND thành phố V cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CC 914471; diện tích 7962,4m2 đối với thửa đất không tranh chấp phía bên đường ven biển, còn diện tích 470,8m2 đang tranh chấp là chưa được cấp.

Do ông C3 cho rằng diện tích đất 470,8m2 là đất của gia đình ông C3 nên bà C1 gửi đơn tranh chấp. Ngày 25/6/2019, Chủ tịch UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2961/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở Phường 12 thành phố V giữa bà Lê Thị C1 và gia đình ông Nguyễn C3, theo đó công nhận diện tích đất 470,8m2 cho bà C1 là đúng quy định.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 31/2022/HC-ST ngày 15/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã tuyên xử:

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Bích L, bà Nguyễn Thị Bích N về việc yêu cầu hủy Quyết định 2961/QĐ-UBND ngày 25/6/2019 của Chủ tịch UBND thành phố V về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở Phường 12, thành phố V giữa bà Lê Thị C1 với gia đình ông Nguyễn C3.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 26/4/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhận đơn kháng cáo của người khởi kiện bà Nguyễn Thị Bích L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Bích L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Bích L trình bày: Lý do kháng cáo đề nghị hủy Quyết định 2961/QĐ-UBND ngày 25/6/2019 của Chủ tịch UBND thành phố V vì UBND thành phố V cho rằng đất tranh chấp của bà C1, bà C1có giấy tờ. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất của Tòa án. UBND thành phố V giải quyết không đúng thẩm quyền. Nội dung kháng cáo trong bản án đã thông qua. Việc giải quyết tranh chấp có giấy tờ thuộc thẩm quyền của Tòa án. Đề nghị sửa án sơ thẩm, hủy Quyết định 2961/QĐ-UBND ngày 25/6/2019 của Chủ tịch UBND thành phố V.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày: Hồ sơ tranh chấp đất đai của ông C3 và bà C1, biên bản hòa giải không thành về đất đai. UBND thành phố V ban hành quyết định đúng quy định pháp luật. Nguồn gốc đất hợp pháp của bà Đ, bà C1có kê khai sử dụng qua các thời kỳ. Phần đất tranh chấp do gia đình ông C3 không xác định ranh nên UBND thành phố V chưa cấp cho bà C1. Diện tích 470,8m2 đất tranh chấp, ông C3 có giấy xác nhận quá trình sử dụng đất, giải quyết tranh chấp công nhận cho bà C1 là đúng quy định. Bản án sơ thẩm xét xử đúng pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà C1trình bày: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND thành phố V ban hành đúng quy định pháp luật. Bà C1 là người sử dụng đất, kê khai, bồi thường giải phóng mặt bằng, sổ mục kê có kê khai, đề nghị y án sơ thẩm.

Ông T1 trình bày: Thống nhất ý kiến của người bảo vệ, đề nghị y án sơ thẩm.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Về nội dung: Xét kháng cáo của bà L. Căn cứ hồ sơ địa chính, sổ mục kê, phần đất 470,8m2 theo hồ sơ địa chính, thuộc một phần trong 2.813m2 thửa số 10 (mới 161) tờ bản đồ số 31 (mới 60) đứng tên bà Lê Thị C1 đăng ký kê khai.

Qua lồng ghép Bản đồ địa chính, 470,8m2 đất các bên đang tranh chấp không thuộc thửa 153, tờ bản đồ 31 đã cấp Giấy chứng nhận cho ông, bà Nguyễn C3. Nhà nước thu hồi đất, bà C1 quản lý sử dụng và được bồi thường. Diện tích 470,8m2 do ông X thuê đất của bà C1 sử dụng. Bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là đúng quy định pháp luật. Kháng cáo của bà L không có căn cứ. Người khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định 2961/QĐ-UBND ngày 25/6/2019 của Chủ tịch UBND thành phố V về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở Phường 12, thành phố V giữa bà Lê Thị C1 với gia đình ông Nguyễn C3, nội dung yêu cầu tại phiên tòa không thuộc phạm vi kháng cáo ban đầu, giới hạn xét xử, ý kiến của người bảo vệ không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà L, giữ y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ ý kiến của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:

Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Bích N và bà Nguyễn Thị Bích L khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết hủy Quyết định 2961/QĐ-UBND ngày 25/6/2019 của Chủ tịch UBND thành phố V về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở Phường 12, thành phố V giữa bà Lê Thị C1 với gia đình ông Nguyễn C3.

Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính, thời hiệu khởi kiện vẫn còn và Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.

[2] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị Bích L, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Nguồn gốc đất 470,8m2 theo hồ sơ địa chính, thuộc một phần trong 2.813m2 thửa số 10 (mới 161) tờ bản đồ số 31 (mới 60) đứng tên bà Lê Thị C1 đăng ký kê khai. Trước năm 1975 bà L3 khai phá 8.889m2 có Họa đồ vị trí do Văn phòng trắc địa sư chế độ cũ đo đạc năm 1972. Sau đó bà C1đăng ký kê khai (bà C1và bà Đ là 2 Tu sỹ ở chung một nhà, bà Đ chết năm 2002). Năm 2002, Nhà nước mở đường thu hồi của bà C1 566,8m2 thửa đất của bà C1còn lại bị chia làm 2 phần. Phần 7.962.4m2 đã được UBND thành phố cấp Giấy chứng nhận, phần còn lại khoảng 470,8m2 do tranh chấp với gia đình ông, bà C3 nên UBND thành phố chưa cấp Giấy chứng nhận. Hiện trạng trên đất chỉ còn một cây Tràm còn sót lại và một đống xà bần không xác định được của ai và gạch xây dựng của ông Huỳnh Bá X thuê đất của bà C1 để bán vật liệu xây dựng.

Về thửa 153, tờ bản đồ số 31 của gia đình ông, bà Nguyễn C3 kê khai đăng ký và đã được cấp Giấy chứng nhận có diện tích 3.047m2, qua lồng ghép Bản đồ địa chính, 470,8m2 đất các bên đang tranh chấp không thuộc thửa 153, tờ bản đồ 31 đã cấp Giấy chứng nhận cho ông, bà Nguyễn C3.

Trên cơ sở hồ sơ địa chính và xác minh, thẩm định diện tích đất tranh chấp, Chủ tịch UBND thành phố V ban hành Quyết định 2961/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại tranh chấp đất giữa bà Lê Thị C1 với gia đình ông, bà Nguyễn C3. Theo đó công nhận cho bà C1 được quyền sử dụng 470,8m2 đất thuộc thửa 10 (mới 161), tờ bản đồ 31 (mới 60) là đúng quy định của pháp luật. Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận, Chủ tịch UBND thành phố V giải quyết là đúng thẩm quyền.

Khiếu kiện của bà H, bà L, bà N là không có cơ sở và Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận là có căn cứ.

[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật. Bà L kháng cáo không đưa ra được chứng cứ để làm thay đổi nội dung vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà L, giữ nguyên án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị.

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà C1 phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bà L không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.

[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà L là người cao tuổi nên được miễn án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 30; 32; 116; Điều 193; khoản 1 Điều 241; Điều 348 và Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Bích L. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 31/2022/HC-ST ngày 15/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cụ thể như sau:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Bích L, bà Nguyễn Thị Bích N về việc yêu cầu hủy Quyết định 2961/QĐ- UBND ngày 25/6/2019 của Chủ tịch UBND thành phố V về việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở Phường 12, thành phố V giữa bà Lê Thị C1 với gia đình ông Nguyễn C3.

2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Miễn toàn bộ án phí hành chính sơ thẩm cho bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Bích L, bà Nguyễn Thị Bích N.

3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Miễn toàn bộ án phí hành chính phúc thẩm cho bà Nguyễn Thị Bích L.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 789/2022/HC-PT

Số hiệu:789/2022/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về