Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 51/2023/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 51/2023/HC-ST NGÀY 12/05/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 12 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 46/2023/TLST-HC ngày 03 tháng 3 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2023/QĐXXST-HC ngày 24 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Bà Đặng Thị H, sinh năm 1961; Địa chỉ: Tổ 4, Ấp 4, xã L, huyện C, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Xuân Ph, sinh năm 1966; Địa chỉ: Ấp T, xã Ph, huyện C, tỉnh Long An.

Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Minh Tr, Phó Chủ tịch Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Hoài Th, Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện.

(Ông Ph có mặt, ông Tr, ông Th có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án của người khởi kiện có nội dung như sau:

Bà Đặng Thị H yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 446017 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Đặng Thị H ngày 11/4/2003 đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 01, diện tích 625m2, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An.

Lý do: Thửa đất 370, tờ bản đồ số 01 do bà H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Nguyễn Thị Ngh vào năm 2003 và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 446017 ngày 11/4/2003. Từ khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà H sử dụng ổn định, không ai tranh chấp. Năm 2022, bà H tiến hành đo đạc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho con thì phát hiện thửa đất 370, tờ bản đồ số 01 sai hình thể so với thực tế sử dụng. Sau đó, bà H có làm đơn gửi Ủy ban nhân dân huyện C yêu cầu thu hồi và cấp lại giấy đúng với hình thể thực tế sử dụng. Ngày 30/12/2022, UBND huyện có Công văn số 7071/UBND-KT trả lời và hướng dẫn bà H làm đơn khởi kiện ra Tòa án để được giải quyết theo thẩm quyền. Do đó, ngày 10/01/2023 bà H làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh Long An đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà H để bà được đăng ký cấp lại cho đúng thực tế sử dụng.

Tại Công văn số 1012/UBND-NC ngày 15/3/2023 người bị kiện UBND huyện C có nội dung trình bày như sau:

Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đặng Thị H đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 01 tại xã Ph, huyện C căn cứ theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Ngh với bà Đặng Thị H là đúng theo quy định pháp luật. Việc người khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 446017 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Đặng Thị H ngày 11/4/2003 đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 01, diện tích 625m2, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng Hành chính.

Về nội dung: Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 446017 cho bà Đặng Thị H đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 1, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An là trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Ngh với bà Đặng Thị H là đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H, Ủy ban nhân dân huyện C không xem xét hiện trạng, đo đạc thực tế sử dụng nên cấp sai hình thể và diện tích thực tế sử dụng, diện tích thực tế theo mảnh trích đo ngày 27/4/2023 là 1328,3m2. Nội dung này được chứng minh qua lời trình bày của bà H và biên bản xem xét thẩm định tại chổ của Tòa án nhân dân tỉnh Long An ngày 20/4/2023. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của bà H là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của bà H.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Đặng Thị H yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 446017 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Đặng Thị H ngày 11/4/2003 đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 01, diện tích 625m2, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An.

Đây là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Long An theo quy định tại khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng Hành chính.

[2] Về thời hiệu khởi kiện: Năm 2022, bà H tiến hành đo đạc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho con thì phát hiện thửa đất 370, tờ bản đồ số 01 sai hình thể và diện tích so với thực tế sử dụng. Sau đó, bà H có làm đơn gửi Ủy ban nhân dân huyện C yêu cầu thu hồi và cấp lại giấy đúng với hình thể thực tế sử dụng. Ngày 30/12/2022, UBND huyện có Công văn số 7071/UBND-KT trả lời và hướng dẫn bà H làm đơn khởi kiện ra Tòa án để được giải quyết theo thẩm quyền. Do đó, ngày 10/01/2023 bà H làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh Long An là trong thời hiệu nên Tòa án thụ lý giải quyết là đúng quy định tại Điều 116 của Luật Tố tụng Hành chính.

[3] Về việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại: Tòa án đã có thông báo cho các đương sự nhưng người bị kiện vắng mặt, người khởi kiện yêu cầu không đối thoại nên Tòa án lập biên bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản không tiến hành đối thoại được theo quy định của Điều 135, 137 Luật Tố tụng Hành chính.

[4] Người đại diện của người bị kiện ông Huỳnh Minh Tr, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ông Nguyễn Hoài Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng Hành chính Tòa án nhân dân tỉnh Long An tiến hành xét xử vắng mặt ông Tr, ông Th là phù hợp.

[5] Về hình thức và thẩm quyền ban hành quyết định: Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 446017 cho bà Đặng Thị H đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 1, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An là trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Ngh với bà Đặng Thị H là đúng theo quy định của Luật Đất đai năm 2003.

[6] Về nội dung của quyết định hành chính: Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 446017 cho bà Đặng Thị H đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 1, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An là trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Ngh với bà Đặng Thị H là đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà H, Ủy ban nhân dân huyện C không xem xét hiện trạng, đo đạc thực tế sử dụng nên cấp sai hình thể và diện tích thực tế sử dụng. Diện tích thực tế theo mảnh trích đo ngày 27/4/2023 là 1328,3m2. Nội dung này được chứng minh qua lời trình bày của bà H và biên bản xem xét thẩm định tại chổ của Tòa án nhân dân tỉnh Long An ngày 20/4/2023.

Như vậy, có cơ sở xác định Ủy ban nhân dân huyện C đã cấp quyền sử dụng đất cho bà Đặng Thị H đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 01, diện tích 625m2, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An không đúng hình thể và diện tích thực tế sử dụng, là trái với quy định Điều 10, Điều 49, Điều 50, Điều 105, Điều 107 Luật Đất đai năm 2003. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị H là có căn cứ nên được chấp nhận, như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tại phiên tòa.

[7] Về chi phí tố tụng và án phí:

Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng), bà H đã nộp và tự nguyện chịu toàn bộ chi phí này nên ghi nhận là phù theo khoản 1 Điều 357, 358 Luật Tố tụng Hành chính.

Về án phí: Ủy ban nhân dân huyện C phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của Điều 348 Luật Tố tụng Hành chính và Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 116, Điều 135, Điều 137, Điều 158, Điều 348, Điều 357, Điều 358, Điều 30, Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính;

Căn cứ Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội .

Áp dụng Điều 10, Điều 37, Điều 105 Luật Đất đai năm 2003;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị H.

Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 446017 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Đặng Thị H ngày 11/4/2003 đối với thửa đất 370, tờ bản đồ số 01, diện tích 625m2, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An 2. Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Đặng Thị H chịu 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc (đã nộp xong).

3. Về án phí: Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 51/2023/HC-ST

Số hiệu:51/2023/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 12/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về