TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 50/2023/HC-ST NGÀY 12/05/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 12 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 45/2023/TLST-HC ngày 03 tháng 3 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2023/QĐXXST-HC ngày 24 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Bà Ngô Thị L, sinh năm 1940; Địa chỉ: Số 162 Ấp 5, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Xuân Ph, sinh năm 1966; Địa chỉ: Ấp T, xã Ph, huyện C, tỉnh Long An.
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Minh Tr, Phó Chủ tịch Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Hoài Th, Trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện.
(Ông Ph có mặt, ông Tr, ông Th có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án của người khởi kiện có nội dung như sau:
Bà Ngô Thị L yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 142269 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Ngô Thị L ngày 24/12/2004 đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5, diện tích 5.061m2, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An.
Lý do: Thửa đất 553, tờ bản đồ số 05 do bà L nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Võ Thị Đ vào năm 2004 và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 142269 ngày 24/12/2004. Từ khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà L sử dụng ổn định, không ai tranh chấp. Năm 2022, bà L tiến hành đo đạc để xin cấp lại giấy chứng nhận theo mẫu mới thì phát hiện thửa đất 553, tờ bản đồ số 5 sai diện tích so với thực tế sử dụng. Sau đó, bà L có làm đơn gửi Ủy ban nhân dân huyện C yêu cầu thu hồi và cấp lại giấy đúng với hình thể thực tế sử dụng. Ngày 17/10/2022 Ủy ban nhân dân huyện có công văn số 5728/UBND-KT trả lời và hướng dẫn bà L làm đơn khởi kiện ra Tòa án để được giải quyết theo thẩm quyền. Do đó, ngày 10/01/2023 bà L làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh Long An đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà L để bà được đăng ký cấp lại cho đúng thực tế sử dụng.
Tại Công văn số 1009/UBND-NC ngày 15/3/2023 người bị kiện UBND huyện Cần Giuộc có nội dung trình bày như sau:
Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Ngô Thị L đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5 tại xã Phước Lại, huyện Cần Giuộc căn cứ theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Võ Thị Đ với bà Ngô Thị L là đúng theo quy định pháp luật. Việc người khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 142269 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Ngô Thị L ngày 24/12/2004 đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5; tọa lạc tại xã Ph, huyện C đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng Hành chính.
Về nội dung: Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 142269 cho bà Ngô Thị L đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An là trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Võ Thị Đ với bà Ngô Thị L là đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L, Ủy ban nhân dân huyện C không đo đạc thực tế sử dụng nên cấp sai diện tích so với thực tế sử dụng, diện tích thực tế theo mảnh trích đo ngày 27/4/2023 là 5668.9m2 trong khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. bà L chỉ được cấp 5061m2. Nội dung này được chứng minh qua lời trình bày của ông Ph và biên bản xem xét thẩm định tại chổ của Tòa án nhân dân tỉnh Long An ngày 20/4/2023. Như vậy, yêu cầu khởi kiện của bà L là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của bà L.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Ngô Thị L yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 142269 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Ngô Thị L ngày 24/12/2004 đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An. Đây là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Long An theo quy định tại khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng Hành chính.
[2] Về thời hiệu khởi kiện: Năm 2022 bà L tiến hành đo đạc để xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo mẫu mới thì phát hiện thửa đất 553, tờ bản đồ số 5 sai diện tích so với thực tế sử dụng. Nên bà L có làm đơn gửi Ủy ban nhân dân huyện C yêu cầu thu hồi và cấp lại giấy đúng với hình thể thực tế sử dụng. Ngày 17/10/2022 Ủy ban nhân dân huyện có công văn số 5728/UBND-KT trả lời và hướng dẫn bà L làm đơn khởi kiện ra Tòa án để được giải quyết theo thẩm quyền. Do đó ngày 10/01/2023 bà L làm đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh Long An là trong thời hiệu nên Tòa án thụ lý giải quyết là đúng quy định tại Điều 116 của Luật Tố tụng Hành chính.
[3] Về việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại: Tòa án đã có thông báo cho các đương sự nhưng người bị kiện vắng mặt, người khởi kiện yêu cầu không đối thoại nên Tòa án lập biên bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản không tiến hành đối thoại được theo quy định của Điều 135, 137 Luật Tố tụng Hành chính.
[4] Người đại diện của người bị kiện ông Huỳnh Minh Tr, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ông Nguyễn Hoài Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng Hành chính Tòa án nhân dân tỉnh Long An tiến hành xét xử vắng mặt ông Tr, ông Th là phù hợp.
[5] Về hình thức và thẩm quyền ban hành quyết định: Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 142269 cho bà Ngô Thị L đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An là trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Võ Thị Đ với bà Ngô Thị L là đúng theo quy định của Luật Đất đai năm 2003.
[6] Về nội dung của quyết định hành chính: Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 142269 cho bà Ngô Thị L ngày 24/11/2004 đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An là trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Võ Thị Đ với bà Ngô Thị L. Tuy nhiên, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L, Ủy ban nhân dân huyện C không đo đạc, thẩm tra nên cấp sai diện tích thực tế sử dụng, diện tích thực tế theo mảnh trích đo ngày 27/4/2023 là 5668.9m2, trong khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà L được cấp là 5061m2. Nội dung này được chứng minh qua lời trình bày của ông Ph người đại diện theo ủy quyền của bà L và biên bản xem xét thẩm định tại chổ của Tòa án nhân dân tỉnh Long An ngày 20/4/2023.
Như vậy, có cơ sở xác định Ủy ban nhân dân huyện C đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Ngô Thị L đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An có diện tích ít hơn thực tế sử dụng là 607.9m2 làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà L, là trái với quy định Điều 10, Điều 49, Điều 50, Điều 105, Điều 107 Luật Đất đai năm 2003 . Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị L là có căn cứ nên được chấp nhận, như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tại phiên tòa.
[7] Về chi phí tố tụng và án phí:
Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc là 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng). Bà L đã nộp và tự nguyện chịu toàn bộ chi phí này nên ghi nhận là phù theo khoản 1 Điều 357, 358 Luật Tố tụng Hành chính.
Về án phí: Ủy ban nhân dân huyện C phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của Điều 348 Luật Tố tụng Hành chính và Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 116, Điều 135, Điều 137, Điều 158, Điều 348, Điều 357, Điều 358, Điều 30, Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính;
Căn cứ Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội .
Áp dụng Điều 10, Điều 49, Điều 50,, Điều 105, Điều 107 Luật Đất đai năm 2003;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị L.
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 142269 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Ngô Thị L ngày 24/12/2004 đối với thửa đất 553, tờ bản đồ số 5, diện tích 5.061m2, loại đất trồng lúa; tọa lạc tại xã Ph, huyện C, tỉnh Long An 2. Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Ngô Thị L chịu 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và đo đạc (đã nộp xong).
3. Về án phí: Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An phải nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 50/2023/HC-ST
Số hiệu: | 50/2023/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 12/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về