Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 468/2023/HC-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 468/2023/HC-PT NGÀY 26/06/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 26 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 346/2023/TLPT-HC ngày 04 tháng 5 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2023/HC-ST ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 6701/2023/QĐPT-HC ngày 08 tháng 6 năm 2023 giữa các đương sự:

* Người khởi kiện: Ông Hoàng Văn K- Có mặt. Địa chỉ: thôn D, xã D, huyện H, thành phố Hà Nội.

* Người bị kiện: Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội. Địa chỉ: số 75, N, quận Đ, thành phố Hà Nội.

Có đơn xin xét xử vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội, địa chỉ: số 14A P, quận H, thành phố Hà Nội;

Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Công an huyện H, thành phố Hà Nội, địa chỉ: khu 6, thị trấn T, huyện H, thành phố Hà Nội;

Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ủy ban nhân dân huyện H, thành phố Hà Nội; Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Uỷ ban nhân dân xã D, huyện H, thành phố Hà Nội. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ông Hoàng Văn K trình bày:

Từ tháng 01/1969, tôi được phân công về Công trường 114 - Bộ Giao thông vận tải tại B (còn gọi là Công trường Bộ) rồi điều động về Đội đá Yên Cư (Y, H, Quảng Ninh). Ngày 10/6/1969, khi đang làm nhiệm vụ thì tôi bị máy bay oanh tạc, hậu quả là tôi bị thương và điều trị tại bệnh viện H, Quảng Ninh. Ngày 20/7/1969, tôi xuất viện và an dưỡng tại đơn vị từ ngày 20/7/1969 đến ngày 20/8/1969. Tôi tiếp tục công tác tại đơn vị đến tháng 6/1971 thì được cho về nghỉ tại địa phương Ngày 16/8/1971, tôi nhận được Quyết định phục vụ tại ngũ số 05/QĐ-TN của Ủy ban hành chính huyện H điều động tôi phục vụ tại ngũ. Tôi được phân về Đơn vị C7, D655, E12 đóng tại Xuân Mai. Sau đợt huấn luyện, qua đợt tổng kiểm tra để chuyển vào miền Nam chiến đấu, do tôi không đủ điều kiện sức khỏe (vì thương tích ngày 10/6/1969) nên tôi được về. Tôi được Huyện đội H giữ lại làm quân nhân dự bị của huyện và điều tôi vào làm trợ lý quân khu của Tiểu đoàn cơ động tỉnh H (Đơn vị đóng tại Đông La, sau đó chuyển lên B). Đến năm 1975 thì tôi về địa phương, gia nhập Hợp tác xã và làm ruộng.

Việc tôi bị thương có các tài liệu chứng minh là: Đơn thuốc ngày 19/7/1969; Giấy ra viện ngày 22/7/1969.

Năm 2001, qua thông tin từ các đồng đội, tôi được biết Nhà nước có chính sách nhân đạo, trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công. Đồng đội cũng hướng dẫn tôi về thủ tục để được công nhận. Qua đó, tôi liên hệ và được Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh H giới thiệu đi giám định thương tật. Biên bản giám định thương tật số 167/GĐYK-TT ngày 30/10/2001 đã kết luận tỷ lệ thương tật của tôi là 33% vĩnh viễn. Tôi được Ban chấp hành tỉnh đoàn H cấp Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 4/10/2001 để hoàn tất hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Tôi được hưởng chế độ trợ cấp như Thương binh hàng tháng từ ngày 1/11/2001 và được tặng kỷ niệm chương.

Nhà nước đề nghị cho Công trường 115 là đơn vị Thanh niên xung phong. Tôi đã cống hiến công sức cho chiến trường bằng cách phá đá mở đường, làm cảng hàng hải C và sân bay Đ để tiếp nhận hàng hóa do các nước anh em viện trợ để phục vụ cho chiến trường. Tại công trường, tôi đã bị máy bay địch oanh tạc gây thành thương tích, đó hoàn toàn là sự thật, các đồng đội của tôi có thể làm chứng cho sự thật này. Chính các đồng đội này của tôi đã có quá trình công tác giống như tôi đều đã được nhận kỷ niệm chương và đều được hưởng chế độ chính sách ưu đãi như Thương binh. Chính họ thông báo và hướng dẫn tôi cách thức ban đầu để được công nhận. Việc hoàn tất hồ sơ của tôi đều được thực hiện theo sự hướng dẫn và sự giới thiệu của các cán bộ lãnh đạo và các đồng đội của tôi. Hồ sơ của tôi cũng giống hệt như hồ sơ của toàn bộ các đồng đội của tôi, đầy đủ các thủ tục, được xét duyệt theo trình tự như nhau. Vậy mà các cơ quan: Công an huyện H, Phòng LĐTB và Xã hội huyện H, Sở LĐTB và Xã hội Hà Nội chỉ căn cứ vào Đơn tố cáo sai sự thật của bà Vương Thị L và trên cơ sở các tài liệu điều tra tại Công văn số 444/BC-CSHĐ ngày 4/6/2013 để tạm dừng chế độ ưu đãi như thương binh đối với tôi kể từ ngày 1/11/2013. Đến ngày 01/4 tôi nhận được Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH đình chỉ thu hồi chế độ trợ cấp ưu đãi của tôi. Như vậy, Sở LĐTB và Xã hội đã ra quyết định không đúng pháp luật và không khách quan, không đúng trình tự tư pháp.

Do đó, tôi làm đơn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 của Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp ưu đãi về thương binh đối với ông Hoàng Văn K.

Người bị kiện Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội trình bày:

Ông Hoàng Văn K, sinh năm 1947 tham gia lực lượng Thanh niên xung phong ngày 15/01/1969, đơn vị C128K - Công trường 114, bị thương ngày 10/6/1969 tại Y, H, Quảng Ninh. Hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi người hưởng chính sách như thương binh của ông Hoàng Văn K được xác lập theo trình tự, thủ tục và thẩm quyền quy định tại Thông tư liên tịch số 16/1999/TTLT-LĐTBXH-TWĐTNCSHCM ngày 06/7/1999 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội - Trung ương Đoàn thành niên cộng sản Hồ Chí Minh về hướng dẫn thực hiện chính sách đối với thanh niên xung phong đã hoàn thành nhiệm vụ trong kháng chiến, trong đó giấy chứng nhận bị thương của ông Hoàng Văn K do Ban Chấp hành Tỉnh đoàn H đã cấp trên cơ sở hai người làm chứng và Kỷ niệm chương Thanh niên xung phong có ghi nhận ông Hoàng Văn K là Thanh niên xung phong tại đơn vị C128K, công trường III bị thương trong trường hợp làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông bộc phá nổ bị thương.

Ông Hoàng Văn K được hưởng chế độ ưu đãi người hưởng chính sách như thương binh với tỷ lệ mất sức lao động do thương tật 33% vĩnh viễn kể từ ngày 01/11/2001.

Ngày 30/9/2013, UBND huyện H có văn bản số 3622/UBND- LĐTBXH đề nghị Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội ra quyết định đình chỉ chế độ, thu hồi quyền lợi đã hưởng sai, đề nghị Thành đoàn Hà Nội thu hồi Giấy chứng nhận bị thương đã cấp, chuyển các cơ quan liên quan để xử lý theo pháp luật hiện hành đối với ông Hoàng Văn K, sinh năm 1947 thường trú tại thôn Đ, xã D.

Đồng thời, tại Văn bản số 14 BC/CAHĐ ngày 04/6/2013 của Công an huyện H báo cáo kết quả xác minh theo kiến nghị của cử tri với đồng chí bí thư huyện ủy huyện H, với nội dung:

Ngày 18/10/2013, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội ban hành Quyết định số 13128/QĐ-SLĐTBXH về việc tạm dừng trợ cấp thường thi đối với ông Hoàng Văn Khái là người hưởng thương tích như thương binh, thời gian kể từ ngày 01/11/2013 đúng quy định.

Đồng thời, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội có văn bản số 344/LĐTBXH-NCC ngày 24.02.2014 chuyển đến Thành Đoàn Hà Nội đề nghị thu hồi Giấy chứng nhận số 57/CNTĐ ngày 4/10/2001 do Ban chấp hành tỉnh Đoàn H đã cấp cho ông Hoàng Văn K theo thẩm quyền.

Ngày 14/12/2020. Sở Lao động - Thương bình và Xã hội Hà Nội nhận được Quyết định số 1842-QĐ/TĐTN-TCKT ngày 03/12/2020 của Ban Chấp hành đoàn thành phố Hà Nội về việc thu hồi Giấy Chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 của Ban Chấp hành tinh đoàn H đã cấp đối với ông Hoàng Văn K.

Ngày 24/02/2021, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Quyết định số 1052/QD-SLĐTBXH về việc đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp ưu đãi hưởng chính sách như thương binh đối với ông Hoàng Văn K là đúng quy định.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan- Công an huyện H trình bày:

Ngày 02/5/2013, tại buổi tiếp xúc cử chỉ của Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội khoá XIII tại xã D, huyện H, bà Vương Thị L đã tố cáo ông Hoàng Văn K không đi thanh niên xung phong nhưng được trao tặng kỷ niệm chương và được hưởng chế độ thương binh là sai, vi phạm pháp luật. Ngay lúc đó Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội đã giao tin báo này cho Công an huyện H giải quyết. Cùng ngày 02/5/2013 bà Vương Thị L đã gửi đơn tố giác ông Hoàng Văn K đến Công an huyện H nội dung như trên. Sau khi nhận được đơn của bà L, Công an huyện H đã tiến hành xác minh, xác định:

Khoảng tháng 10/1966, ông K được Phòng giáo dục huyện H cử đi học tại trường Trung học điện tại T, tỉnh Vĩnh Phú (cũ) nay là Trường Đại học Điện lực. Đến khoảng cuối năm 1968 thì ông K hoàn thành khóa học (ông K chưa được thi tốt nghiệp do nợ môn) và được Trường trung học điện giới thiệu đến nhận công tác tại Công trường 114 - thuộc Bộ giao thông vận tải. Tại công trường 114, ông K được phân công về làm việc tại tổ phát điện khoan nhồi mìn thuộc Xí nghiệp đá Yên Cư, H, Quảng Ninh. Khi làm việc tại Xí nghiệp đã Yên Cư, ông K được hưởng lương của công nhân theo bậc lương trung cấp là 39 đồng 05 hào, sau đó được tăng lượng lên 40 đồng. Xí nghiệp đá Yên Cư nơi ông K công tác không phải là đơn vị Thanh niên xung phong.

Ngày 10/6/1969, khi đang làm việc thì ông K bị thương và điều trị tại Bệnh viện tỉnh Quảng Ninh đến tháng 07/1969 thì ra viện (Giấy ra viện ghi nơi công tác là mỏ đá Yên Cư). Tháng 6/1971, ông K được nghỉ việc về địa phương nhưng không có văn bản hay quyết định nghỉ.

Đến năm 2000, ông K biết được thông tin Công trường 114 được công nhận là đơn vị Thanh niên xung phong nên ông Hoàng Văn K đã làm hồ sơ để nghị cấp kỷ niệm chương thanh niên xung phong và hưởng chế độ chính sách như thương binh. Cụ thể:

Tháng 8/2001, ông K làm hồ sơ đề nghị hưởng chế độ như thương binh và nhờ ông Nguyễn Hữu Kh (ông K được ông Nguyễn Trọng Côi giới thiệu đến gặp ông Kh, trước đó ông K có làm đơn xin gia nhập hội cựu TNXP C128K nhưng không được chấp nhận) và ông Đào Quý Dịu (hiện nay cả hai ông đều đã chết) chứng nhận cho ông K có thời gian công tác tại đơn vị C128K giai đoạn 1969-1971 và bị thương vào ngày 10/6/1969. Mặc dù ông Hoàng Văn K không công tác tại đơn vị C128K nhưng các ông Nguyễn Hữu Kh và Đào Quý Dịu vẫn xác nhận cho ông K với nội dung như trên. Ngoài ra ông K còn xin xác nhận của ông Trần Đình Đ - nguyên là Bí thư Đảng ủy kiêm Quyền giám đốc xí nghiệp đá Yên Cư giai đoạn 1968-1971 và ông Đỗ Đình Nghiêm - nguyên Trưởng Phòng kế hoạch công trưởng 114 giai đoạn 1969-1971 xác nhận nội dung ông K có thời gian công tác tại đơn vị C128K từ 1969- 1971. Sau đó ông K đã hoàn thiện hồ sơ và được hưởng chế độ chính sách như thương binh.

Ngày 30/5/2003, Sở Lao động Thương binh xã hội tỉnh H đã có Quyết định số 480/QĐ - LĐTBXH về việc cấp giấy chứng nhận người hưởng chính sách như thương binh cho ông Hoàng Văn K. Theo quyết định ông K được hưởng trợ cấp thương tật hàng tháng theo tỷ lệ mất sức lao động 33% do bị thương trong khi làm nhiệm vụ kể từ ngày 01/11/2001.

Khoảng tháng 3/2001, ông K làm hồ sơ đề nghị cấp kỷ niệm chương TNXP cùng với thời gian làm hồ sơ đề nghị hưởng chế độ như thương binh và đến tháng 6/2001 thì ông K được cấp kỷ niệm chương TNXP số 222 NQ/TUĐTN và sử dụng kỷ niệm chương này để làm hồ sơ hưởng chế độ như thương binh. Sau đó do một số kiến nghị đối với kỷ niệm chương số 222 NQ/TƯĐTN là giả nên ông K đã trực tiếp đến tỉnh đoàn H cũ để giao nộp lại giấy chứng nhận kỷ niệm chương số 222 (ông K không nhớ là đã nộp cho ai). Đến tháng 7/2002 thì ông K được cấp kỷ niệm chương TNXP số 326/QĐ/TWĐTN ngày 01/7/2002 nhưng lại ghi tên là Hoàng Văn Khái.

Qua xác minh, ngày 27/5/2013 Công an huyện H được Văn phòng BCH lực lượng TNXP Trung ương thuộc Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh cung cấp: Ngày 17/6/2001 Trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh ra quyết định số 222NQ/TUĐTN về việc tặng kỷ niệm chung TNXP cho các cựu TNXP tỉnh đoàn Thái Bình. Ngày 01/7/2012, Trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh ra quyết định số 126 NQ/TƯĐTN về việc tặng kỷ niệm chiếm TNXP cho các cựu TNXP tỉnh đoàn H, những trong danh sách các cá nhân đang tặng kỷ niệm chương thì không có ai tên là Hoàng Văn K hay là Hoàng Văn Khái quê quán ở D, H.

Tuy nhiên ngày 26/02/2016 Trung ung Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lại có Công văn số 6751-CV/TWĐIN TNXP trả lời ông Hoàng Văn K với nội dung xác định: “Trong danh sách tặng kỷ niệm chương TNXP đã ban hành kèm theo Quyết định số 326QĐ/TWĐTN ngày 01/7/2002 của Ban bí thư Trung ương Đoàn có tên ông Hoàng Văn K, sinh năm 1947, quê quán tại D, H, Hà Nội nhưng thời gian tham gia TNXP là từ 1965 đến 1967”.

Công an huyện H đã tiến hành xác minh và được Thành Đoàn Hà Nội cung cấp Trong quá trình bàn giao hồ sơ giữa tỉnh Đoàn H (cũ) và Thành Đoàn Hà Nội thời điểm hợp nhất năm 2008 thì hồ sơ cấp kỷ niệm chương TNXP của ông K và một số hồ sơ khác bị thất lạc, hư hỏng nên không khai thác được thông tin. Thành Đoàn Hà Nội đã có công văn đề nghị Trung ương Đoàn cho sao lưu hồ sơ cấp kỷ niệm chương số 222 NQ/TƯĐTN ngày 20/6/2001 và số 326/QĐ/TWĐTN ngày 01/7/2002 của ông Hoàng Văn K (thời gian công tác từ 1969-1971). Ngày 26/5/2016 Ban chấp hành Trung ương Đoàn có công văn số 7323-CV/TWĐTN-TNXP trả lời với nội dung: “ Trong danh sách tặng kỷ niệm chương TNXP ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/QĐ/TWĐTN ngày 01/7/2002 của Ban bí thư Trung ương Đoàn tặng cho TNXP tỉnh H có tên ông Hoàng Văn Khái SN: 1947 ở D, H, nhưng thời gian tham gia TNXP là từ 1965 đến 1967”.

Tiến hành xác minh những người liên quan có kết quả:

Ông Trần Đình Đ cung cấp: Xí nghiệp đá Yên Cư là Xí nghiệp thuộc Bộ giao thông vận tải, không phải là đơn vị Thanh niên xung phong. Khi ông Đ làm giám đốc thì ông K đến làm công nhân tại Xí nghiệp, nên ông K khai báo là thanh niên xung phong từ 1969-1971 là không đúng sự thật. Việc ông Đ xác nhận cho ông K là TNXP giai đoạn 1969-1971 là do ông Đ sơ suất, không đọc kỹ văn bản do ông K tự viết, nếu đọc kỹ là xác nhận cho ông K là TNXP thì ông Đ sẽ không xác nhận.

Ông Đỗ Đình Nghiêm cung cấp: Trong thời gian từ năm 1969-1971 không có ai tên là Hoàng Văn K công tác tại đơn vị C128K. Việc ông Nghiêm xác nhận cho ông K là TNXP giai đoạn 1969-1971 là do ông Nghiêm không xem xét kỳ nội dung văn bản.

Ông Tạ Văn T là cán bộ tổ chức lao động của đơn vị C128K, hiện là Trưởng ban liên lạc đơn vị C128K-CT114, ông Nguyễn Văn T, Bùi Văn N - cựu TNXP đơn vị C128K -CT114 khẳng định: Trong đơn vị C128K không có ai là Hoàng Văn K. Ông K từng có đơn xin gia nhập sinh hoạt tại hội cựu TNXP C128K nhưng không được ông T và các hội viên chấp nhận vì thực tế ông K không có thời gian công tác tại đơn vị C128K.

Căn cứ vào các tài liệu đã thu thập được, Công an huyện H đã kết luận: Ông Hoàng Văn K không có thời gian phục vụ trong lực lượng thanh niên xung phong tại đơn vị C128K – Công trường 114 của Bộ giao thông vận tải. Hồ sơ do ông Hoàng Văn K làm để đề nghị xét cấp tặng kỷ niệm chương Thanh niên xung phong và đề nghị được hưởng chế độ chế độ chính sách như thương binh là không đúng với thực tế.

Ngày 04/6/2013 Công an huyện đã có báo cáo UBND huyện H chỉ đạo Phòng Lao động TBXH huyện H dừng cấp chế độ trợ cấp hưởng thương binh hàng tháng đối với ông Hoàng Văn K.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - UBND huyện H trình bày:

Ngày 04/06/2013, Công an huyện H có Báo cáo số 444 BC/CAHĐ lên UBND huyện H chỉ đạo Phòng Lao động TBXH huyện H dừng cấp chế độ trợ cấp hưởng thương binh hàng tháng đối với ông Hoàng Văn K. Phòng Lao động TB&XH huyện có Công văn số 196/CV-LĐTB&XH báo cáo kết quả xác minh người hưởng chính sách như thường binh của Công an huyện H với Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Hà Nội đồng thời xin ý kiến chỉ đạo. Ngày 30/09/2013, Phòng Lao động TB&XH tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện H có Công văn số 3622/UBND-LDTBXH gửi Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc giải quyết chế độ đối với ông Hoàng Văn K người hưởng chính sách như thương binh.

Ngày 21/10/2013, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội có Quyết định số 13182/QĐ-SLĐTBXH về việc tạm dừng chế độ thương tật ông Hoàng Văn K từ ngày 01/11/2013.

Ngày 22/11/2017, Công an huyện H có văn bản số 08/CAHĐ Báo cáo Chủ tịch UBND huyện H về việc giải quyết đơn thư của ông Hoàng Văn K.

Ngày 12/12/2017, Phòng Lao động TB&XH tham mưu cho UBND huyện có công văn số 2871/UBND-LĐTBXH về việc giải quyết đơn thư của ông Hoàng Văn K người hưởng chính sách như thương binh.

Ngày 03/12/2020, Ban chấp hành Đoàn thành phố Hà Nội có Quyết định số 1942/QĐ/TĐTN-TCKT về việc thu hồi Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 của Ban Chấp hành tỉnh đoàn H.

Ngày 24/02/2021, Sở LĐ-TBXH Hà Nội có Quyết định số 1052/QĐ- SLĐTBXH về việc đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp và ưu đãi về thương binh đối với ông Hoàng Văn K, sinh năm 1947, nguyên quán xã D, huyện H, thành phố Hà Nội, cư trú tại xã D, huyện H, thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội trình bày:

Việc ông Hoàng Văn K kê khai hồ sơ để làm chế độ TNXP hưởng chế độ như thương bình theo quy định tại thời điểm kê khai là phù hợp. Tuy nhiên, qua 02 lần kê khai hồ sơ, việc xin xác nhận quá trình tham gia TNXP của ông Hoàng Văn K có nhiều mâu thuẫn, sửa chữa, trong các tài liệu liên quan đến bản khai của ông Hoàng Văn K do Công an huyện H thu thập trong quá trình điều tra, có nhiều chi tiết, mốc thời gian không đồng nhất (thời gian, nội dụng quá trình công tác) việc người xác nhận thời gian tham gia TNXP đối với ông Hoàng Văn K không đồng nhất (tài liệu xác minh của Công an Huyện H).

Việc các ông Trần Đình Đ, Đỗ Đình K đã từng xác nhận thời gian tham gia TNXP cho ông Hoàng Văn K tại giai đoạn 1969 – 1971 là không đúng do cả 02 ông sơ suất không xem kỹ nội dung văn bản. Như vậy việc xác nhận nhân chứng là đồng đội trong hồ sơ trước đây không chính xác.

Ông Tạ Văn T (SN 1945, ở Đ Hà Nội) Trưởng Ban Liên lạc đơn vị CE28K- CT114, ông Nguyễn Văn T, Bùi Văn Nhiễu - cựu TNXP đơn vị C128K-CT114 khẳng định không có hội viên tên Hoàng Văn K. Ông Hoàng Văn K từng có đơn xin gia nhập hội viên sinh hoạt đơn vị C128K nhưng không được chấp nhận do ông Hoàng Văn K không có thời gian công tác tại C128K. Ban liên lạc xác nhận không có hội viên tên Hoàng Văn K như cá nhân kê khai trong hồ sơ. Bên cạnh đó, cũng không có giấy từ xác định việc tham gia đơn vị C128K-CT14 của ông Hoàng Văn K.

Việc ông Hoàng Văn K sử dụng Giấy chứng nhận tặng Kỷ niệm chương của Trung ương Đoàn cấp không trùng thông tin cá nhân, đơn vị, thời gian của ông Hoàng Văn K để lập hồ sơ đề nghị hưởng chế độ hưởng như thương binh là hành vi khai báo không trung thực.

Tại Công văn số 3237-CV/TWĐTN-TNXP ngày 07/08/2019 của Trung ương Đoàn về việc xác minh đơn vị TNXP CT114 trả lời đề nghị của Công an Huyện H nêu: Do đơn vị CT114 chưa được xác định là đơn vị thanh niên xung phong nên những người tham gia CT114 cũng chưa được xác định là thanh niên xung phong trong buổi làm việc giữa Trung ương Đoàn, đại diện Công an Huyện H và ông Hoàng Văn K, ông Hoàng Văn K chưa cung cấp được các hồ sơ làm căn cứ xác định CT114 là đơn vị thanh niên xung phong.

Căn cứ đề xuất của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, kết quả điều tra của cơ quan Công an huyện H, các đơn vị trên có đề xuất Thành đoàn Hà Nội thu hồi giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ, ngày 04/10/2001 do Tỉnh đoàn H cấp cho ông Hoàng Văn K (hiện nay còn 01 bản dấu đỏ đang lưu trong hồ sơ đề nghị hưởng chế độ tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội). Để có cơ sở thu hồi GCN bị thương số 57/CNTĐ, ngày 04/10/2001 do Tỉnh đoàn H cấp cho ông Hoàng Văn K đã cấp trước đây, Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội đã có Công văn số 3096-CV/TĐTN-TCKT, ngày 20/10/2020 báo cáo xin ý kiến Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về việc thu hồi Giấy chứng nhận bị thương TNXP do Tỉnh đoàn H cấp. Ngày 27/11/2020, Ban Bí thư Trung ương Đoàn có Công văn số 6119- CV/TWĐTN-TNXP trả lời về nội dung này và Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội đã ban hành Quyết định số 1842 QĐ/TĐTN-TCKT, ngày 03/12/2020 về việc thu hồi Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 của Ban Chấp hành Tỉnh đoàn H đã cấp cho ông Hoàng Văn K.

Từ căn cứ trên, việc ban hành Quyết định số 1842-QĐ/TĐTN-TCKT ngày 03/12/2020 về việc thu hồi Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ, ngày 04/10/2001 do Tỉnh đoàn H cấp cho ông Hoàng Văn K là đúng trình tự, thẩm quyền.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND xã D: Không có văn bản trình bày ý kiến.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2023/HC-ST ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 30, Điều 32, Điều 116, Điều 157, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều 206, Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; Khoản 2 Điều 13 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005; Điểm a Khoản 1 Điều 66 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Điều 43 Thông tư số 05/2013/TT-BLDTHXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân; Luật Phí và Lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn K đề nghị hủy Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 của Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp ưu đãi về thương binh đối với ông Hoàng Văn K.

2. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 18/3/2023, người khởi kiện là ông Hoàng Văn K có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Ông Hoàng Văn K giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, không xuất trình thêm chứng cứ mới.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu ý kiến:

- Thẩm phán, thư ký phiên tòa, người đại diện hợp pháp của người bị kiện khi tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Kháng cáo trong hạn đối với toàn bộ bản án sơ thẩm nên cần được chấp nhận để xem xét.

- Trên cơ sở lời trình bày của đương sự, các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã bác đơn khởi kiện của người khởi kiện là đúng quy định của pháp luật, kháng cáo của người kháng cáo không có căn cứ chấp nhận.

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm bác đơn kháng cáo của ông K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Đối tượng khởi kiện: Yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Văn K đề nghị Tòa án xem xét Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 của Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp ưu đãi về thương binh đối với ông Hoàng Văn K. Quyết định số 1052 được xác định là quyết định hành chính cá biệt theo quy định tại khoản 2 Điều 3, Điều 30 Luật TTHC.

Về thời hiệu khởi kiện, đơn khởi kiện của ông Hoàng Văn K được gửi đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong thời hiệu khởi kiện. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý đơn khởi kiện và xem xét giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

Về kháng cáo của ông K: Đơn kháng cáo của ông K phù hợp pháp luật về hình thức, nội dung, trong thời hạn kháng cáo nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về sự có mặt của các đương sự: tại phiên tòa, đại diện người bị kiện Giám đốc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Hà Nội, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công an huyện H, UBND huyện H có đơn xin xử vắng mặt. UBND huyện D vắng mặt tại phiên tòa lần 2. Căn cứ Điều 157 Luật tố tụng hành chính, Tòa án xét xử vắng mặt người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2] Xét Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 của Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp ưu đãi về thương binh đối với ông Hoàng Văn K, thấy rằng:

2.1 Xét về thẩm quyền: Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 được ban hành bởi Phó Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội theo Quyết định số 19/QĐ-SLĐTBXH ngày 03/01/2018 về việc phân công nhiệm vụ Ban Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội. Căn cứ Điều 67 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng, Quyết định số 1052 được ban hành đúng thẩm quyền. Về hình thức, Quyết định số 1052 được lập thành văn bản đảm bảo đúng hình thức.

2.2 Xét về trình tự ban hành: Văn bản số 3622/UBND-LĐTBXH ngày 30/9/2013 của UBND huyện Huyện H cùng Báo cáo kết quả xác minh của Công an huyện H tại văn bản số 444BC/CAHĐ gửi Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về hồ sơ của ông Hoàng Văn K. Theo kết luận của 02 văn bản trên, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội ra Quyết định số 13128/QĐ-SLĐTBXH ngày 18/10/2013 về việc tạm dừng trợ cấp thương tật đối với ông Hoàng Văn K là người hưởng chế độ ưu đãi như thương binh, thời gian kể từ ngày 01/11/2013. Đồng thời, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội có văn bản số 344/LĐTBXH-NCC ngày 24/02/2014 chuyển đến Thành Đoàn Hà Nội đề nghị thu hồi Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 4/10/2001 do Ban chấp hành tỉnh Đoàn H đã cấp cho ông Hoàng Văn K theo thẩm quyền. Ngày 03/12/2020, Ban Chấp hành đoàn thành phố Hà Nội ra Quyết định số 1842-QĐ/TĐTN-TCKT về việc thu hồi Giấy Chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 của Ban Chấp hành Tỉnh đoàn H đã cấp đối với ông Hoàng Văn K. Căn cứ Quyết định số 1842 ngày 03/12/2020 của Ban Chấp hành đoàn thành phố Hà Nội và xét đề nghị của Trưởng phòng người có công, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội ban hành Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 đúng theo trình tự thủ tục quy định tại Điều 43 Thông tư số 05/2013/TT-BLDTHXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân.

Khi xem xét yêu cầu hủy Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021, Tòa án đồng thời phải xem xét 02 Quyết định hành chính có liên quan cứ gồm: Quyết định số 13128/QĐ-SLĐTBXH ngày 18/10/2013 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc tạm dừng trợ cấp thương tật đối với ông Hoàng Văn K; Quyết định số 1842-QĐ/TĐTN-TCKT ngày 03/12/2020 của Ban Chấp hành đoàn thành phố Hà Nội về việc thu hồi Giấy Chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 của Ban Chấp hành Tỉnh đoàn H đã cấp đối với ông Hoàng Văn K.

2.4. Xét Quyết định số 13128/QĐ-SLĐTBXH ngày 18/10/2013 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc tạm dừng trợ cấp thương tật đối với ông Hoàng Văn K nhận thấy:

Ngày 04/10/2001, Ban chấp hành Tỉnh đoàn H đã cấp Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ cho ông Hoàng Văn K trên cơ sở hai người làm chứng và Kỷ niệm chương Thanh niên xung phong có ghi nhận ông Hoàng Văn K là Thanh niên xung phong tại đơn vị C128K - Công trường 114, bị thương ngày 10/6/1969 tại Y, H, Quảng Ninh trong trường hợp làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông, bộc phá nổ bị thương. Sau đó, Tỉnh đoàn H có Giấy giới thiệu số 57-GT/TĐ ngày 21/11/2001 của Ban Chấp hành Tỉnh đoàn H chuyển hồ sơ và trả trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công đối với trường hợp ông K sang Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H để làm thủ tục hưởng trợ cấp theo quy định.

Tháng 8/2001, ông K làm hồ sơ hồ sơ đề nghị hưởng chế độ như thương binh gồm: Bản khai cá nhân, Sơ yếu lý lịch tự thuật có xin xác nhận của ông Nguyễn Hữu Kh (SN 1947, Đ, Hà Nội), ông Đào Quý Dịu (SN 1942 ở An Thượng, H), ông Trần Đình Đ - Nguyên Bí thư Đảng ủy kiêm Giám đốc xí nghiệp đá Yên Cư giai đoạn 1968-1971 và ông Đỗ Đình K - Nguyên trưởng phòng Kế hoạch, công trường 114 giai đoạn 1969-1971; Kỷ niệm chương của Trung ương Đoàn vào năm 2001 được cấp theo QĐ số 222-NQ/TƯĐTN ngày 20/6/2001; Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001; Biên bản giám định thương tật số 167/GĐYK-TT ngày 30/10/2001 của Hội đồng giám định y khoa tỉnh H.

Ngày 30/5/2003, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H ra Quyết định số 480/QĐ-LĐTBXH về việc cấp giấy chứng nhận người hưởng chính sách trợ cấp ưu đãi thương binh đối với ông Hoàng Văn K với tỷ lệ thương tật 33% kể từ 01/11/2001.

Ngày 02/5/2013, bà Vương Thị L tại buổi tiếp xúc cử tri của Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội khoá XIII tại xã D, huyện H đã tố cáo đồng thời gửi đơn lên Công an huyện H tố cáo ông Hoàng Văn K không đi thanh niên xung phong nhưng được trao tặng kỷ niệm chương và được hưởng chế độ thương binh là sai, vi phạm pháp luật.

Công an huyện H tiến hành lấy lời khai của những người làm chứng cho ông K và xác minh đối với 2 kỷ niệm chương của ông K. Quá trình điều tra thể hiện: Việc ông K khai báo có thời gian công tác tại Xí nghiệp đá Yên Cư thuộc H, Quảng Ninh giai đoạn 1969-1971 và bị thương (ngày 10/6/1969) là có căn cứ. Tuy nhiên, ông Hoàng Văn K không có thời gian phục vụ trong lực lượng thanh niên xung phong tại đơn vị C128K như đã khai báo trong hồ sơ để nghị hưởng chế độ như thương binh. Kỷ niệm chương số 326/QĐ/TWĐTN ngày 01/7/2002 ghi tên ông Hoàng Văn Khái, nhưng thời gian tham gia TNXP là từ 1965 đến 1967 nên không phù hợp với thời gian ông K khai báo để làm hồ sơ đề nghị hưởng chế độ như thương binh và không đúng với tên của ông K. Kỷ niệm chương TNXP số 222 NQ/TƯĐTN mà ông Hoàng Văn K sử dụng để làm hồ sơ đề nghị hưởng chế độ như thương binh không có giá trị (tặng cho các cựu TNXP của Tỉnh đoàn Thái Bình). Công an huyện H đã kết luận: Ông Hoàng Văn K không có thời gian phục vụ trong lực lượng thanh niên xung phong tại đơn vị C128K – Công trường 114 của Bộ giao thông vận tải. Hồ sơ do ông Hoàng Văn K làm để đề nghị xét cấp tặng kỷ niệm chương Thanh niên xung phong và đề nghị được hưởng chế độ chế độ chính sách như thương binh là không đúng với thực tế.

Căn cứ vào Báo cáo báo cáo số 444/BC- CTHĐ ngày 04/6/2013 của Công an huyện H, ngày 30/9/2013, UBND huyện H đã có công văn số 3622/UBND- LĐTBXH gửi Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội với nội dung “Toàn bộ hồ sơ do ông Hoàng Văn K làm để đề nghị xét cấp tặng Kỷ niệm chương Thanh niên xung phong và đề nghị hưởng chế độ chính sách như thương binh là giả…”.

Điều 43 Thông tư số 05/2013/TT-BLDTHXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định thủ tục xử lý đối với những trường hợp khai man, giả mạo giấy tờ để hưởng chế độ ưu đãi:

“Người giả mạo, khai man giấy tờ để hưởng chế độ hoặc hưởng thêm chế độ ưu đãi người có công với cách mạng thì bị xử lý theo quy định tại Điều 43 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng.

Khi phát hiện có dấu hiệu khai man, giả mạo thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ra quyết định tạm đình chỉ chế độ ưu đãi và tiến hành xác minh, kết luận hoặc có văn bản đề nghị cơ quan, đơn vị xác lập hồ sơ người có công xác minh, kết luận.” Do đó, Quyết định số 13128/QĐ-SLĐTBXH ngày 18/10/2013 của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc tạm dừng trợ cấp thương tật đối với ông Hoàng Văn K là có căn cứ vào theo đúng quy định pháp luật.

2.5. Xét Quyết định số 1842-QĐ/TĐTN-TCKT ngày 03/12/2020 của Ban Chấp hành đoàn thành phố Hà Nội về việc thu hồi Giấy Chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 của Ban Chấp hành Tỉnh đoàn H đã cấp đối với ông Hoàng Văn K nhận thấy:

Ngày 20/5/2020, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội gửi Công văn số 1601/SLĐTBXH-NCC đề nghị Thành đoàn Hà Nội thu hồi Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 của Tỉnh đoàn H cấp cho ông Hoàng Văn K để có cơ sở giải quyết dứt điểm trường hợp ông Hoàng Văn K.

Căn cứ Điều 43 Thông tư số 05/2013/TT-BLDTHXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định thủ tục xử lý đối với những trường hợp khai man, giả mạo giấy tờ để hưởng chế độ ưu đãi thì Ban Chấp hành Đoàn thành phố Hà Nội là đơn vị đầu tiên xác lập hồ sơ người có công nên có thẩm quyền kết luận. Do đó, Ban Chấp hành đoàn thành phố Hà Nội đã xác minh lại hồ sơ của ông K và xác định thẩm quyền thu hồi thu hồi GCN bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 do Tỉnh đoàn H cấp cho ông Hoàng Văn K trước đây. Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội đã có Công văn số 3096-CV/TĐTN-TCKT, ngày 20/10/2020 báo cáo xin ý kiến Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh về việc thu hồi Giấy chứng nhận bị thương TNXP do Tỉnh đoàn H cấp. Ngày 27/11/2020, Ban Bí thư Trung ương Đoàn có Công văn số 6119-CV/TWĐTN-TNXP trả lời với nội dung: Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội có đủ thẩm quyền để ra Quyết định thu hồi Giấy chứng thương do tỉnh Đoàn H cấp.

Do đó, Quyết định số 1842-QĐ/TĐTN-TCKT, ngày 03/12/2020 của Ban Chấp hành đoàn thành phố Hà Nội về việc thu hồi Giấy chứng nhận bị thương số 57/CNTĐ ngày 04/10/2001 của Ban Chấp hành Tỉnh đoàn H đã cấp cho ông Hoàng Văn K được ban hành đúng thẩm quyền có căn cứ pháp luật.

2.6. Về nội dung Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021:

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: ông Hoàng Văn K chưa từng tham gia thanh niên xung phong giai đoạn 1969- 1971. Do đó nội dung Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 của Giám đốc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp ưu đãi về thương binh đối với ông Hoàng Văn K được ban hành là đúng.

[3]. Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 của Giám đốc Sở Lao động- Thương binh và Xã hội Hà Nội là có căn cứ, đúng thẩm quyền, tuân thủ trình tự và thủ tục theo pháp luật. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông K đề nghị hủy Quyết định số 1052/QĐ-SLĐTBXH ngày 24/02/2021 của Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội về việc đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp ưu đãi về thương binh đối với ông Hoàng Văn K không có căn cứ để chấp nhận.

[4] Về các quyết định khác của Tòa án sơ thẩm: Các quyết định khác của Tòa án sơ thẩm có căn cứ pháp luật.

[5] Xét kháng cáo của ông Hoàng Văn K: Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, bác kháng cáo của ông K, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[6] Về án phí phúc thẩm: Ông K là người già, có đề nghị nên được miễn án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng Hành chính năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Văn K, giữ nguyên toàn bộ quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 37/2023/HC-ST ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

[2]. Về án phí: ông Hoàng Văn K là người già có đơn xin miễn án phí, nên không phải chịu án phí phúc thẩm.

[3]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 468/2023/HC-PT

Số hiệu:468/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:26/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về