Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 344/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 344/2023/HC-PT NGÀY 24/05/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 24 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử công khai vụ án hành chính thụ lý số 292/2022/TLPT-HC ngày 14 tháng 7 năm 2022, do có kháng cáo của người khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2022/HC-ST ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5226/2022/QĐ-PT ngày 08 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, vụ án có các đương sự sau:

* Người khởi kiện: Ông Hoàng Trọng L; địa chỉ: Số 199 Nguyễn Phi K, thôn B, xã H, thành phố LS, tỉnh Lạng Sơn (Có mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đoàn Văn S; địa chỉ: Số 195 Nguyễn Phi K, thôn B, xã H, LS, tỉnh Lạng Sơn (Vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư Nguyễn Huy X– Văn phòng luật sư N, thuộc Đoàn luật sư thành phố HN(Có mặt).

* Người bị kiện: Ủy ban nhân dân LS, tỉnh Lạng Sơn.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Công D – Phó Chủ tịch (Vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:

mặt).

- Ông Hà Quang N– Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường LS (Vắng - Ông Nguyễn Thế C– Cán bộ Trung tâm phát triển quỹ đất LS (Vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Thị N;

Người đại diện theo uỷ quyền của bà Nội: Bà Vũ Thị Nguyệt K (Có mặt).

- Ông Hoàng Thế A(Có mặt);

- Bà Hoàng Thu P(Vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Số 199 Nguyễn Phi K, thôn B, xã H, LS, tỉnh Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày tại phiên tòa, người khởi kiện ông Hoàng Trọng L và người đại diện theo ủy quyền của ông Hoàng Trọng Ltrình bày:

Ngày 05/10/2004, ông Vi Văn B và bà Nguyễn Thị H đã chuyển nhượng cho gia đình ông diện tích 149m2 đất lúa; diện tích đất trên đã được Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) thị xã Lạng Sơn (nay là UBND LS) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23/12/1998; khi mua bán hai bên có lập giấy tờ viết tay, có xác nhận của UBND xã H, LS. Gia đình đã xây nhà cấp 4 bằng gạch bê tông, lợp mái prôximăng và sinh sống ổn định từ năm 2004 đến 2012 không xảy ra tranh chấp với ai. Từ năm 2005 đến 2017, gia đình đều đóng thuế đất cho nhà nước. Ngày 18/6/2012, gia đình ông được thông báo đến họp để làm sổ đỏ, tuy nhiên khi đến họp thì được biết diện tích đất trên bị nhà nước thu hồi để thực hiện dự án: Khu đô thị Nam H I và khu mở rộng dự án Nam H I, LS. Ngày 19/6/2012, Tổ công tác đến kiểm đếm khối lượng về đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc, cây cối, hoa màu trên đất. Ngày 07/11/2016, gia đình nhận được Giấy mời của Trung tâm phát triển quỹ đất đến nhận tiền bồi thường đã được phê duyệt tại Quyết định số 793/QĐ-UBND ngày 24/4/2013, tuy nhiên gia đình không được nhận Quyết định trên. Tổng số tiền gia đình được hỗ trợ là 335.393.870 đồng. Không đồng ý với Quyết định trên, ông đã khiếu nại lên Tỉnh ủy và Chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn thì được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lạng Sơn trả lời tại Công văn số 12/STNMT-TTr ngày 04/01/2017 với nội dung không chấp nhận khiếu nại.

Ngày 31/12/2020, UBND LS ban hành Quyết định số 3227/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong đó gia đình ông được bồi thường 366.852.600 đồng (bồi thường về đất là 8.076.800 đồng; bồi thường hỗ trợ nhà, vật kiến trúc là 350.694.300 đồng; bồi thường hỗ trợ cây cối hoa màu là 102.400 đồng; bồi thường chi phí di chuyển và hỗ trợ tiền thuê nhà 8.200.000 đồng; thu nghĩa vụ tài chính 220.900 đồng) và không đủ điều kiện được cấp tái định cư. Ngày 16/01/2021, gia đình nhận được Quyết định số 3318/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của gia đình ông. Không đồng ý với các Quyết định trên, ngày 19/11/2021, ông đã khởi kiện tại Tòa án đề nghị hủy một phần Quyết định số 3227/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân LS, tỉnh Lạng Sơn liên quan đến việc thu hồi đất đối với gia đình ông và thực hiện quy trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án: Điều chỉnh, mở rộng Khu đô thị Nam H I, LS (đợt 10 năm 2020) theo quy định của pháp luật.

Tại Bản tự khai ngày 04/4/2022, người bị kiện UBND thành phố LạngSơn, tỉnh Lạng Sơn trình bày:

Dự án điều chỉnh, mở rộng khu đô thị Nam H I, LS được UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch tại Quyết định số 434/QĐ-UBND ngày 26/3/2010 phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 điều chỉnh, mở rộng Khu đô thị Nam H I, LS. Ngày 18/5/2010 UBND tỉnh Lạng Sơn đã ban hành Quyết định số 707/QĐ-UBND về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng điều chỉnh, mở rộng Khu đô thị Nam H I, LS trong đó giao cho Công ty cổ phần sản xuất và thương mại Lạng Sơn là Chủ đầu tư thực hiện dự án. Ngày 08/6/2010, UBND thành phố ban hành Thông báo số 55/TB-UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án. Thông báo thu hồi đất đã được niêm yết tại trụ sở UBND xã H, UBND phường Tam Thanh và tại điểm sinh hoạt chung của khu dân cư là tại các Nhà văn hóa trên địa bàn phường, xã từ ngày 10/6/2010.

Khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành, UBND tỉnh tiếp tục ban hành Quyết định số 1802/QĐ-UBND ngày 05/10/2016 về phê duyệt chủ trương điều chỉnh thời hạn thực hiện dự án trong đó đã gia hạn thời gian thực hiện dự án, đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Ngày 03/6/2020, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố đã tiến hành đo đạc kiểm đếm tại thực địa khu đất của hộ ông Hoàng Trọng Loan, tổng diện tích đo đạc, kiểm đếm là 128,5m2 thuộc thửa đất số 402a, tờ bản đồ địa chính số 96 xã H. Trên đất có nhà ở, một số vật kiến trúc khác và cây cối hoa màu. Thửa đất số 402a, tờ bản đồ địa chính số 96 xã H đủ điều kiện bồi thường về loại đất trồng lúa (LUA) diện tích 126,2m2, thu nghĩa vụ tài chính 2,5%, báo cáo UBND tỉnh Lạng Sơn giao 01 ô đất tái định cư theo khoản 4, điều 6, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 14/4/2014 của Chính phủ nếu không còn đất ở, nhà ở nào khác trên địa bàn xã H. Ngày 31/12/2020, UBND thành phố ban hành Quyết định số 3318/QĐ-UBND về việc thu hồi đất đối với gia đình ông Hoàng Trọng Lvà Quyết định số 3227/QĐ- UBND (đã có Thông báo số 1227/TB-UBND ngày 09/12/2021 đính chính số Quyết định là 3327/QĐ-UBND) về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án đợt 10 năm 2020, trong đó có hộ ông Hoàng Trọng Lđược phê quyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư với tổng số tiền là 367.073.500 đồng. Ngày 29/12/2021, UBND LS ban hành Quyết định số 4893/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án hỗ trợ tái định cư đối với ông Hoàng Trọng Ldo ảnh hưởng bởi dự án, trong đó hộ ông Hoàng Trọng Lđược giao 01 ô tái định cư. Dự án điều chỉnh, mở rộng khu đô thị Nam H I, LS là dự án được triển khai chuyển tiếp giữa Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013. Việc thực hiện trình tự bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ ông Hoàng Trọng L đã được UBND thành phố triển khai, thực hiện đầy đủ theo đúng quy định theo Điều 69 Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành, đến thời điểm hiện nay gia đình vẫn chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và chưa chấp hành bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án. Vì vậy, đề nghị Tòa án xử bác đơn khởi kiện của ông Hoàng Trọng L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tại biên bản lấy lời khai, đơn trình bày của bà Nguyễn Thị N; anh Hoàng Thế Avà chị Hoàng Thu P đều nhất trí với quan điểm của người khởi kiện, đề nghị Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện của ông Hoàng Trọng L. Bà Nguyễn Thị N; anh Hoàng Thế A và chị Hoàng Thu P có văn bản từ chối tham gia tố tụng.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2022/HC-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 116; Điều 157; điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính.

Căn cứ khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về yêu cầu khởi kiện:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Trọng Lvề việc yêu cầu hủy một phần Quyết định số 3327/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân LS, tỉnh Lạng Sơn về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án: Điều chỉnh, mở rộng Khu đô thị Nam H I, LS (đợt 10 năm 2020) vì không có căn cứ.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/6/2022, người khởi kiện có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đề nghị bồi thường diện tích đất bị thu hồi theo giá đất ở, theo khu giá đất loại II, khu vực 1, vị trí 1, mức giá 9.000.000đ/1m2 đến 15.000.000đ/1m2; đền bù cho 01 lô đất tái định cư tại chỗ và hỗ trợ tiền đền bù theo giá thấp nhất.

* Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện không đề cập xem xét lại mức bồi thường và đồng ý nhận 01 ô tái định cư, theo Quyết định số 4893/QĐ-UBND ngày 29/12/2021 của UBND LS. Tuy nhiên, ông L yêu cầu phải là ô đất tái định cư tại chỗ và không phải nộp tiền.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại HN nêu quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của người đại diện theo uỷ quyền của người bị kiện UBND LS, có đủ căn cứ khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Hoàng Trọng L là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Trọng L, giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2022/HC-ST ngày 30 tháng 5 năm 2022.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt ông Dương Công D là người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện. Xét thấy, ông Dương Công D đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Các đương sự có mặt tại phiên tòa nhất trí xét xử vắng mặt đối với những người vắng mặt. Vì vậy, căn cứ Điều 157 của Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử đã tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người nêu trên.

[2] Về thời hiệu khởi kiện: Quyết định số 3327/QĐ-UBND được Ủy ban nhân dân LS ban hành ngày 31/12/2020 đến ngày 19/11/2021, ông Hoàng Trọng Lcó đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.

Xét thấy, yêu cầu khởi kiện trên là trong thời hạn 01 năm kể từ ngày biết quyền, lợi ích của mình bị xâm phạm. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết là đảm bảo thời hạn theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

[3] Phạm vi kháng cáo: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/6/2022, người khởi kiện có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đề nghị bồi thường diện tích đất bị thu hồi theo giá đất ở, theo khu giá đất loại II, khu vực 1, vị trí 1, mức giá 9.000.000đ/1m2 đến 15.000.000đ/1 m2; đền bù cho 01 lô đất tái định cư tại chỗ và hỗ trợ tiền đền bù theo giá thấp nhất. Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện không đề cập xem xét lại mức bồi thường và đồng ý nhận 01 ô tái định cư, theo Quyết định số 4893/QĐ- UBND ngày 29/12/2021 của UBND LS. Tuy nhiên, ông Lyêu cầu phải là ô đất tái định cư tại chỗ và không phải nộp tiền.

[4] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Tại đơn khởi kiện ngày 19-11-2021, ông Hoàng Trọng L đề nghị: Tòa án giải quyết khiếu kiện về Quyết định số 3318/QĐ-UBND về việc thu hồi đất đối với gia đình ông Hoàng Trọng Lvà Quyết định số 3227/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân LS, tỉnh Lạng Sơn.

Tại đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện ngày 19-01-2021, ông L chỉ đề nghị hủy Quyết định số 3227/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân LS, tỉnh Lạng Sơn.

Các Quyết định trên là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai quy định tại khoản 14 Điều 22 Luật Đất đai năm 2013, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bằng vụ án hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 30 của Luật Tố tụng hành chính 2015. Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn thụ lý, giải quyết vụ án hành chính là đúng thẩm quyền, được quy định tại khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

[5] Xét các Quyết định số 3327/QĐ-UBND và Quyết định 3318/QĐ- UBND và các quyết định có liên quan, thấy:

[5.1] Về thẩm quyền, trình tự thủ tục, hình thức của các Quyết định số 793/QĐ-UBND ngày 24/4/2013, Quyết định số 3327/QĐ-UBND, Quyết định 3318/QĐ-UBND và Quyết định số 4893/QĐ-UBND ngày 29/12/2021 và Thông báo số 1227/TB-UBND ngày 09/12/2021 đính chính số Quyết định là 3327/QĐ- UBND thấy: Việc Ủy ban nhân dân LS ban hành các Quyết định trên là đúng thẩm quyền, đúng thủ tục và đúng thể thức văn bản; sau khi xét xử sơ thẩm đương sự không kháng cáo về vấn đề này.

[5.2] Xem xét tính hợp pháp của Quyết định hành chính:

Nguồn gốc diện tích đất 128,5m2 thuộc thửa đất số 402a đã được UBND thị xã Lạng Sơn (nay là UBND LS) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 23/12/1998 mang tên Vy Văn B. Năm 2004, ông Vy Văn B chuyển nhượng cho ông Hoàng Trọng Lbằng giấy tờ viết tay có xác nhận của UBND xã H, LS ngày 05/10/2004. Năm 2005, sau khi nhận chuyển nhượng đất với ông B, ông Hoàng Trọng L tự ý xây nhà trên đất, không có giấy phép, quá trình sử dụng không bị xử phạt về hành vi xây nhà trên đất lúa.

UBND LS căn cứ Quy hoạch, Kế hoạch sử dụng đất năm 2020 về việc thực hiện dự án điều chỉnh, mở rộng khu đô thị Nam H I, LS, UBND LS đã ban hành các Thông báo thu hồi đất trong đó có diện tích đất 128,5m2 thuộc thửa đất số 402a, tờ bản đồ địa chính số 96 xã H của ông Hoàng Trọng L. Cơ quan chuyên môn phối hợp với UBND xã H tổ chức họp triển khai phổ biến cơ chế chính sách trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đến các hộ dân. Ngày 03/6/2020, Tổ công tác đã tiến hành đo đạc, thống kê kiểm đếm khối lượng đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc, cây cối hoa màu trên diện tích đất 128,5m2 thuộc thửa đất số 402a. Hiện trạng là đất lúa và trên đất có nhà ở, một số vật kiến trúc và cây cối hoa màu trên đất.

Căn cứ Quyết định số 1228/QĐ-UBND ngày 30/5/2018 của UBND tỉnh Lạng Sơn về phê duyệt giá đất cụ thể để thực hiện dự án; Quyết định số 32/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh Lạng Sơn ban hành Bảng giá đất trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2020-2024, UBND thành phố xác định giá trị bồi thường đối với diện tích đất 128,5m2 thuộc thửa đất số 402a.

Theo báo cáo số 193/BC-UBND ngày 12/08/2021 của UBND xã H thì hộ ông L hiện không có đất ở, nhà ở nào khác trên địa bàn xã, nên theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 83 Luật đất đai 2013; khoản 4 điều 6, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 14/4/2014 của Chính phủ, ông Hoàng Trọng L thuộc trường hợp không còn đất ở, nhà ở nào khác trên địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi, đủ điều kiện để xem xét hỗ trợ tái định cư. Căn cứ khoản 4, Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 14/4/2014 của Chính phủ, gia đình ông Hoàng Trọng Lđủ điều kiện được giao tái định cư. Tại Quyết định số 3227/QĐ- UBND và Quyết định 3318/QĐ-UBND ngày 31/12/2020; Quyết định số 4893/QĐ-UBND ngày 29/12/2021 và Thông báo số 1227/TB-UBND ngày 09/12/2021 đính chính số Quyết định là 3327/QĐ-UBND, mặc dù ông Hoàng Trọng L tự ý xây nhà trên đất, không có giấy phép nhưng UBND LS vẫn bồi thường giá trị căn nhà cho ông L hộ ông Hoàng Trọng L được phê quyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, với tổng số tiền là 367.073.500 đồng và giao 01 ô tái định cư cho hộ gia đình ông Hoàng Trọng Loan.

Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: UBND thành phố về việc phê duyệt phương án, bồi thường hỗ trợ tái định cư đã thực hiện theo đúng thủ tục, trình tự pháp luật quy định, quyền lợi của hộ ông Hoàng Trọng L đã được đảm bảo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện không đề cập xem xét lại mức bồi thường và đồng ý nhận 01 ô tái định cư, theo Quyết định số 4893/QĐ-UBND ngày 29/12/2021 của UBND LS. Tuy nhiên, ông L yêu cầu phải là ô đất tái định cư tại chỗ và không phải nộp tiền là không có cơ sở.

[5.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, luật sư cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét đến các Quyết định số 3327/QĐ-UBND và Quyết định 3318/QĐ-UBND là vi phạm tố tụng đề nghị hủy bản án sơ thẩm. Hội đồng xét xử phúc thẩm, thấy: Tại đơn khởi kiện ngày 19-11-2021, ông Hoàng Trọng L đề nghị: Tòa án giải quyết khiếu kiện về Quyết định số 3318/QĐ-UBND về việc thu hồi đất đối với gia đình ông Hoàng Trọng Lvà Quyết định số 3227/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân LS, tỉnh Lạng Sơn. Tại đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện ngày 19-01-2021, ông Lchỉ đề nghị hủy Quyết định số 3227/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của Ủy ban nhân dân LS, tỉnh Lạng Sơn. Mặt khác, ông Lđồng ý nhận 01 lô đất tái định cư nhưng phải là ô đất tái định cư tại chỗ và không phải nộp tiền, không đề nghị xem xét các vấn đề khác. Do vậy, đề nghị của luật sư không có cơ sở chấp nhận.

[6] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Hoàng Trọng L không xuất trình chứng cứ mới, vì vậy, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa, bác kháng cáo của ông Hoàng Trọng L; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2022/HC-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

[7] Do kháng cáo không được Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận, nên ông Hoàng Trọng Lphải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm. Tuy nhiên ông Hoàng Trọng L là người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bởi các lẽ trên, Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Bác kháng cáo của ông Hoàng Trọng Loan; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2022/HC-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.

2. Về án phí: Ông Hoàng Trọng L được miễn án phí hành chính phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 344/2023/HC-PT

Số hiệu:344/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 24/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về