Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 285/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 285/2023/HC-PT NGÀY 27/04/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 27 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 735/2022/TLPT-HC ngày 14 tháng 11 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.Do bản án hành chính sơ thẩm số: 66/2022/HC-ST ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 63/2023/QĐ-PT ngày 12 tháng 01 năm 2023 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị A1, sinh năm 1932 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp x3, xã N, huyện B, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của bà A1: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1983 (có mặt).

Địa chỉ thường trú: M, N, C, An Giang.

- Người bị kiện:

1/Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An (xin xét xử vắng mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An: Bà Nguyễn Thị Anh T2 – Chuyên viên Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An (có mặt).

2/Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An (xin xét xử vắng mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Trần Văn H3 – Chuyên viên phòng Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An (có mặt)

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

1/Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B, tỉnh Long An Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phạm Thị Q – Phó Giám đốc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện B, tỉnh Long An (xin xét xử vắng mặt).

2/Ông Nguyễn Văn Mười B4, sinh năm 1957 (xin xét xử vắng mặt); Địa chỉ: Ấp x7A, xã M, huyện B, tỉnh Long An.

3/Ông Huỳnh Văn C5, sinh năm 1955 (có mặt); Địa chỉ: Ấp x2, xã A, huyện B, tỉnh Long An.

4/Ông Nguyễn Văn Đ6, sinh năm 1965 (vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp x3, xã N, huyện B, tỉnh Long An.

5/Ông Phan Thành L7, sinh năm 1960 (vắng mặt); Địa chỉ: Ấp x2, xã T, huyện B, tỉnh Long An.

6/Bà Nguyễn Ngọc L8, sinh năm 1973 (vắng mặt);

Địa chỉ: Số 58-60 T, khu phố x1, phường A, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Mười B4, ông Huỳnh Văn C5.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15/01/2021 và lời trình bày của đại diện người khởi kiện trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa sơ thẩm có nội dung:

Bà Nguyễn Thị A1 là người sử dụng thửa đất số 223, tờ bản đồ số 1, diện tích là 1.385,5m2, tuy nhiên diện tích sử dụng thực tế của bà A1 là 1.517,8m2, phần diện tích 132,3m2 nằm trong thửa đất số 222, tờ bản đồ số 11 do ông Nguyễn Văn Đ6 đứng tên.

Từ tháng 08/2020 bà A1 mới biết được sự việc như sau: Phần đất còn lại bà A1 đang sử dụng nằm trong thửa số 222, tờ bản đồ số 11 do ông Nguyễn Văn Đ6 đứng tên. Năm 2011 ông Đ6 bán thửa đất 222 cho ông Phan Thành L7, khi mua bán các bên đều có xác định ranh giới và công nhận phần đất diện tích 132,3m2 nằm trong thửa đất 222 là của bà A1. Khoảng năm 2016 ông L7 bán thửa đất số 222 cho ông Nguyễn Văn Mười B4 và ông Huỳnh Văn C5.

Năm 2011 ông L7 có liên hệ với bà A1 để mua phần đất diện tích 132.3m2 nhưng bà A1 không bán. Năm 2020 sau khi biết sự việc đất của bà A1 đang sử dụng nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Mười B4 và ông C5 đứng tên nên bà A1 có liên hệ trao đổi với ông Mười B4 và ông C5 yêu cầu thực hiện việc cắt trả trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông Mười B4 và ông C5 không đồng ý. Hiện nay phần đất có diện tích 132,3m2 nằm trong thửa đất số 222, tờ bản đồ số 11 bà A1 là người trực tiếp quản lý sử dụng ổn định từ năm 1962 đến nay. Chính vì những lý do trên bà A1 khởi kiện yêu cầu:

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 301346 do Uỷ ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An cấp cho ông Nguyễn Văn Đ6 vào ngày 20/12/2010.

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 296954 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Nguyễn Văn Mười B4 và ông Huỳnh Văn C5.

Tại đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 12/5/2022 của bà Nguyễn Thị A1 có nội dung như sau: Trong quá trình xảy ra tranh chấp bà A1 không biết được thửa đất số 222, tờ bản đồ số 11 do ông Huỳnh Văn C5 đứng tên 01 mình quyền sử dụng đất. Ngày 11/5/2022 sau khi được người đại diện theo ủy quyền của bà A1 thông báo hiện nay thửa đất trên ông Huỳnh Văn C5 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 668664. Do đó, nay bà A1 làm đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề sau: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 668664 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Huỳnh Văn C5 vào ngày 01/3/2021 thửa đất số 222, tờ bản đồ số 11, tọa lạc tại Ấp x3, xã N, huyện B, tỉnh Long An.

Tại Văn bản số 3579/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 13 tháng 6 năm 2022 của người bị kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An có nội dung như sau:

Nguồn gốc thửa đất số 222, tờ bản đồ số 11, diện tích 507.2m2, loại đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc tại Ấp x3, xã N, huyện B, tỉnh Long An trước đây thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Đ6, được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành BD 301346, cấp ngày 20/12/2010. Ông Đ6 chuyển nhượng cho ông Phan Thành L7 được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc Phòng tài nguyên và Môi trường huyện B xác nhận chỉnh lý chuyển quyền ngày 10/11/2011. Năm 2018 ông L7 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Ngọc L8 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B xác nhận chuyển quyền ngày 23/10/2018.

Ngày 14/5/2019 bà L8 lập Hợp đồng chuyển nhượng cho ông Huỳnh Văn C5 và ông Nguyễn Văn Mười B4 được Văn phòng công chứng Phương Nam công chứng số 5141, quyển số 03TP/CC-SCC/HĐGD, ông C5 và ông Mười B4 có đề nghị cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hồ sơ do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B thụ lý. Xét thấy, hồ sơ đầy đủ hợp lệ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B chuyển Văn phòng đăng ký đất đai trình Sở Tài nguyên và Môi trường ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C5 và ông Mười B4 là đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục.

Ngày 09/10/2020 ông Mười B4 và ông C5 lập Văn bản thỏa thuận chia tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 222 nêu trên cho ông Huỳnh Văn C5 được Văn phòng công chứng Bến Lức công chứng số 08809, quyển số 01-2020- TP/CC-SCC/HĐGD ngày 09/10/2020. Xét thấy, hồ sơ đầy đủ, hợp lệ theo quy định của pháp luật Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B chuyển Văn phòng đăng ký đất đai trình Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành CY 668664 ngày 01/3/2021 cho ông Huỳnh Văn C5 là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục.

Tại Văn bản số 1631/CN-VPĐKĐĐ-HCTH ngày 22 tháng 4 năm 2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện B, tỉnh Long An có nội dung như sau:

Ngày 04/10/2004 ông Nguyễn Văn Đ6 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Trần Thị K9 theo Hợp đồng số 2667CN được Uỷ ban nhân dân xã N ký ngày 11/10/2004, được Uỷ ban nhân dân huyện B ký ngày 18/11/2004 gồm các thửa đất số 1705, 2605, 325 tờ bản đồ số 3, diện tích 3941m2 đất tọa lạc tại xã N, huyện B, tỉnh Long An. Thửa đất số 2605, tờ bản đồ số 3, diện tích 500m2 đất lúa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 304762 do Uỷ ban nhân dân huyện B cấp ngày 04/02/2005.

Ngày 22/8/2008 ông Đ6 đăng ký cấp đổi giấy sang hệ thống bản đồ mới do đơn vị thi công thực hiện từ thửa đất số 2605, tờ bản đồ số 3, diện tích 500m2 đất trồng lúa thành thửa đất số 222, tờ bản đồ số 11, diện tích 507,2m2 đất chuyên trồng lúa được Uỷ ban nhân dân huyện B cấp ngày 20/12/2010, số phát hành BD 301346.

Ngày 13/10/20211 ông Đ6 chuyển nhượng cho ông Phan Thành L7 thửa đất 222, tờ bản đồ số 11 và được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất chỉnh lý sang tên cho ông Phan Thành L7 trên trang 3 giấy chứng nhận ngày 10/11/2011.

Năm 2018 ông Phan Thành L7 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Ngọc L8 thửa đất 222, tờ bản đồ số 11 và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B chỉnh lý sang tên trên trang 4 giấy chứng nhận ngày 23/10/2018.

Ngày 14/5/2019 bà L8 chuyển nhượng cho ông Huỳnh Văn C5 và ông Nguyễn Văn Mười B4 thửa đất 222, tờ bản đồ số 11 và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 296955 ngày 06/6/2019.

Ngày 09/10/2020 ông C5 và ông Mười B4 thỏa thuận chia tài sản là quyền sử dụng đất để lại cho ông C5 toàn quyền thửa đất 222, tờ bản đồ số 11 và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 668664 ngày 01/3/2021.

Việc thực hiện giải quyết hồ sơ và tham mưu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ở cho các ông Nguyễn Văn Đ6, Nguyễn Văn Mười B4 và Huỳnh Văn C5 là đúng trình tự, thủ tục theo quy định.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ6 có lời trình bày có nội dung như sau:

Ông Đ6 xác định trong thửa đất 222, tờ bản đồ số 11 có phần diện tích đất khoảng 132,3m2 là của bà Nguyễn Thị A1 sử dụng từ năm 1962. Do trong quá trình cấp đổi bị nhầm cấp luôn diện tích phần đất này của bà A1 trong diện tích đất của ông Đ6, giữa phần đất của bà A1 với phần đất của ông Đ6 có ranh giới rõ ràng, ông L7 đã biết phần diện tích đất khoảng 132,3m2 nằm trong thửa đất 222, tờ bản đồ số 11 của bà A1. Khi chuyển nhượng ông L7 là người đi làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứ ông Đ6 không đi làm.

Do phần đất này ở phía trong, phía trước là đất của bà A1 không có lối đi ra nên sau này ông L7 có thỏa thuận với bà A1 để đổi đất hoặc mua lại phần đất này nhưng bà A1 không đồng ý. Khi chuyển nhượng cho ông L7 ông Đ6 đã xác định ranh giới rõ ràng có chỉ phần đất của ông Đ6 và phần đất của bà A1 giáp ranh có trụ sạn cắm giữa 02 thửa đất.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan các ông Nguyễn Văn Mười B4 và Huỳnh Văn C5 có lời trình bày có nội dung như sau:

Tháng 05/2019 ông C5 và ông Mười B4 có mua của bà Nguyễn Ngọc L8 các thửa đất 222, 225, 255, 668, 669 loại đất lúa, đất trồng cây lâu năm, đất ở nông thôn tọa lạc tại Ấp x3, xã N, huyện B, tỉnh Long An. Tháng 10/2019 Uỷ ban nhân dân xã N có mời ông C5 và ông Mười B4 đến làm việc và thông báo bà Nguyễn Thị A1 kiện ông C5 và ông Mười B4 vì bà A1 có 142m2 đất nằm trong thửa 222. Ông C5 và ông Mười B4 có đến Phòng Tài nguyên và Môi trường sao lục lại đến năm 2007 chủ đất là ông Nguyễn Văn Đ6 thì thửa 222 diện tích vẫn là 507,2m2 và trích lục vẫn đúng hiện trạng khi ông C5 và ông Mười B4 chuyển nhượng.

Ông C5 và ông Mười B4 cho rằng bà A1 khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Đ6 đối với thửa đất 222 là không thiết thực vì trong văn bản sao lục thì thể hiện thửa đất 222 đã mang tên ông Đ6 và hiện trạng như hiện tại. Việc bà A1 khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông C5 và ông Mười B4 đối với thửa đất 222 cũng như ngày 16/5/2022 bà A1 khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Huỳnh Văn C5 đối với thửa đất 222 là phi lý vì ông C5 và ông Mười B4 có trích lục chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng hợp pháp, khi chuyển nhượng làm tròn nghĩa vụ tài chính và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật nên không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của bà A1.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan Phan Thành L7 có lời trình bày trong như sau: Năm 2011 ông L7 nhận chuyển nhượng thửa đất số 222 từ ông Đ6 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện B chứng nhận tại trang 4 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đ6, khi nhận chuyển nhượng không đo đạc thực tế, đất có cắm ranh rõ ràng, ông Đ6 có chỉ đất cho ông L7, khi ông L7 đi xem đất thì phần đất ông mua giáp với đất của bà A1. Do thửa 222 ông mua phải đi qua bờ đất của bà A1, ông có hỏi bà A1 mua lại phần đất của bà A1 đang sử dụng nhưng bà A1 không đồng ý. Ông chỉ nhận chuyển nhượng phần đất của thửa 222 mà ông Đ6 bán cho ông, không nhận chuyển nhượng phần đất bà A1 đang sử dụng, sau đó ông làm thủ tục chuyển nhượng cho bà L8, hoàn toàn không có liên quan đến đất của bà A1.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Ngọc L8 không có lời trình bày trong qua trình giải quyết vụ án.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 66/2022/HC-ST ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định như sau:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị A1.

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 668664 do Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Huỳnh Văn C5 ngày 01/3/2021 đối với thửa đất số 222, tờ bản đồ 11, diện tích 507,2m2, đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc Ấp x3, xã N, huyện B, tỉnh Long An.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/7/2022 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn C5 và ông Nguyễn Văn Mười B4 có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo ông Huỳnh Văn C5 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại bản án sơ thẩm; Ông Nguyễn Văn Mười B4 xin xét xử vắng mặt.

Trong phần tranh luận, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện xác định: Theo Mảnh trích đo địa chính số 310 - 2021 ngày 10/5/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C5 đã có sai sót nên đề nghị Tòa án xem xét phán quyết để người bị kiện cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà A1 và ông C5 theo đúng diện tích thực tế đang sử dụng. Người khởi kiện bà Nguyễn Thị A1 (có ông Nguyễn Văn Đ là đại diện theo ủy quyền) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn C5 đồng ý với đề nghị của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Vụ án từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý đến khi xét xử đã thực hiện đầy đủ các quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về nội dung: Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C5 là có sai sót. Tại phiên tòa các bên đương sự thừa nhận hiện trạng sử dụng đất đúng như bản đo vẽ ngày 10/5/2021, phía người bị kiện cũng thừa nhận sai sót và xác nhận có thể điều chỉnh lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đương sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, sửa bản án sơ thẩm kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các đương sự theo thực tế sử dụng.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có kháng cáo ông Nguyễn Văn Mười B4 xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[2] Ngày 01/3/2021 ông Huỳnh Văn C5 được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 668664 đối với phần đất có diện tích 507,2m2 tại thửa 222 tờ bản đồ số 11 tọa lạc tại ấp 3 xã N, huyện B, tỉnh Long An. Bà Nguyễn Thị A1 cho rằng đã quản lý, sử dụng phần đất diện tích 132,3m2 thuộc thửa 222 từ năm 1962 đến nay, nên khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 668664.

[3] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời trình bày của người khởi kiện bà Nguyễn Thị A1, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ6 (con bà Trần Thị K9) thì: Thửa đất 222 (thửa cũ 2605), tờ bản đồ số 11 (tờ bản đồ cũ 03) thì bà Trần Thị K9 là người kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 2605 (số mới 222), tờ bản đồ số 03 (số mới 11) ngày 18/8/2004. Tuy nhiên, bà K9 không quản lý sử dụng hết thửa đất mà bà K9 chỉ quản lý, sử dụng 01 phần thửa, bà Nguyễn Thị A1 quản lý sử dụng 01 phần thửa. Ông Đ6 (con bà K9) cũng xác định trong thửa 222 thì ông sử dụng một phần, bà A1 sử dụng một phần. Ông Phan Thành L7 chỉ nhận chuyển nhượng phần đất của thửa 222 mà ông Đ6 sử dụng, không nhận chuyển nhượng phần đất bà A1 đang sử dụng. Tại biên bán xác minh ngày 26/3/2020 của Uỷ ban nhân dân xã N có nội dung: Ông Ngô Thanh T10 làm thuê ruộng của bà Nguyễn Thị A1 từ trước năm 1990 phần đất thuộc 1 phần thửa đất số 222 và trọn thửa 223 và trả tiền hàng năm cho bà A1, các thửa đất của bà A1 có bờ ranh rõ ràng, từ khi ông T10 làm đến nay không ai tranh chấp, khiếu nại và tất cả các chủ đất giáp ranh không có chủ đất nào liên lạc ký biên bản giáp ranh với bà A1. Theo biên bản thẩm định tại chỗ do Tòa án nhân dân tỉnh Long An lập ngày 07/4/2021 xác định 01 phần thửa đất số 222 bà A1 đang sử dụng trồng lúa. Như vậy, Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 222, tờ bản đồ số 11 cho bà Trần Thị K9 là không đúng với quy định của pháp luật. Từ đó, việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho thửa 222 căn cứ từ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà K9 cũng không đúng quy định pháp luật.

Yêu cầu khởi kiện của bà A1 là có căn cứ chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự thống nhất khai nhận về hiện trạng sử dụng đất theo Mảnh trích đo địa chính số 310 - 2021 ngày 10/5/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B như sau: Phần đất bà A1 đang quản lý sử dụng gồm vị trí A thửa 223 và vị trí D thửa 222; Phần đất của ông C5 quản lý sử dụng đất là vị trí B thửa 223 và vị trí C thửa 222. Như vậy, phần đất thực tế mà bà A1 và ông C5 đang quản lý, sử dụng đều không đúng với phần đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Bà A1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 301590 ngày 20/12/2010 đối với thửa 223; Ông C5 được cấp giấy chứng nhận số CY 668664 đối với thửa 222). Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện xác định có thể điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà A1 và ông C5 theo đúng diện tích sử dụng tại Mảnh trích đo địa chính số 310 - 2021 ngày 10/5/2021. Đại diện theo ủy quyền của bà A1 và ông C5 cũng đề nghị được điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo bản đồ đo vẽ trên. Xét thấy, yêu cầu của đương sự không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu, đồng thời cũng đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho các bên, cũng như việc thi hành án về việc buộc cơ quan có thẩm quyền thực hiện nhiệm vụ công vụ theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của người có kháng cáo, sửa một phần bản án sơ thẩm theo nội dung nhận định trên.

[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hành chính phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên người có kháng cáo không phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1, 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

I. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn C5, ông Nguyễn Văn Mười B4; Sửa một phần bản án sơ thẩm số 66/2022/HC-ST ngày 28/6/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị A1.

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 668664 do Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Huỳnh Văn C5 ngày 01/3/2021 đối với thửa đất số 222, tờ bản đồ 11, diện tích 507,2m2, đất chuyên trồng lúa nước, tọa lạc Ấp x3, xã N, huyện B, tỉnh Long An; Buộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Huỳnh Văn C5 theo đúng thực tế quản lý sử dụng được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 310 - 2021 ngày 10/5/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B.

Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 301590 ngày 20/12/2010 của bà Nguyễn Thị A1 theo đúng thực tế quản lý sử dụng được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 310 - 2021 ngày 10/5/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B.

2. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

II.Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Huỳnh Văn C5, ông Nguyễn Văn Mười B4 không phải chịu.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 285/2023/HC-PT

Số hiệu:285/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 27/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về