Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 266/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 266/2023/HC-PT NGÀY 18/08/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

 Ngày 18 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 36/2023/TLPT- HC ngày 24 tháng 3 năm 2023 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 29/2022/HC-ST ngày 09/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2660/2023/QĐ-PT ngày 04 tháng 8 năm 2023; giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Huỳnh T; địa chỉ: Tổ B, thôn H, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh T1; địa chỉ: Tổ B, thôn H, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Phan Tấn H - Văn phòng Luật sư Phan Tấn H, Đoàn Luật sư tỉnh K. Có mặt.

- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Đại D - Phó Chủ tịch. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Bà Hồ Thị H1 - Phó trưởng phòng; ông Trần Huỳnh Nhật T2 - Nhân viên Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố N; ông Phạm Thành T3 - Nhân viên Chi nhánh Văn phòng Đ tại N. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan + Ủy ban nhân dân xã V, thành phố N. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Quang Đan T4- Công chức Địa chính xã V. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm, người khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền cho ông Huỳnh T là ông Huỳnh T1 trình bày:

Nguyên trước đây cha, mẹ ông Huỳnh T là ông Huỳnh L và bà Lê Thị B, trú tại tổ B, thôn H, xã V, N đã khai hoang và quản lý sử dụng 22.500m2 đất nông nghiệp, có xác nhận chứng thực ngày 04/3/1960 của xã V, quận V, tỉnh Khánh Hòa. Trong quá trình sử dụng đất đã thực hiện nghĩa vụ thuế theo xác nhận chứng thực nộp thuế đặc nhượng đất khai hoang đề ngày 02/01/1975 của Ty Điền Địa tỉnh K với diện tích đất là 03ha. Năm 1987 cha, mẹ ông T chết đã để lại toàn bộ diện tích đất nêu trên cho anh, chị, em ông Thanh quản l sử dụng. Gia đình ông T đã kê khai đăng ký ruộng đất tại UBND xã V (Theo sổ đăng ký ruộng đất của năm 1987) và đã thực hiện nghĩa vụ thuế cho Nhà nước đầy đủ (Theo các biên lai chứng từ nộp thuế đất nông nghiệp và đất ở nông thôn với diện tích là 10.135 m2, ngày 30/7/1995 và một số diện tích đất nông nghiệp khác theo các biên lai nộp thuế số 198 năm 1996, số 06 năm 1997 và số 34 năm 1998 của C). Ông T là người được thừa kế thửa đất này (Văn bản phân chia di sản thừa kế được công chứng chứng thực hợp pháp ngày 01/10/ 2008 tại Phòng C1 tỉnh Khánh Hòa, sau khi đã được niêm yết công khai tại UBND xã V từ ngày 27/8/ đến ngày 27/2/ 2008 và có sự xác nhận của UBND xã V về việc niêm yết công khai hợp pháp nêu trên). Gia đình ông T còn thuộc diện chính sách là gia đình đã có công với cách mạng trong hai thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ cứu nước.

Ngày 12/11/2019, ông T thực hiện trách nhiệm của người sử dụng đất, kê khai đăng ký xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Hồ sơ tài liệu đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định về tính pháp lý là hợp pháp, đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 2013. Theo giấy biên nhận số 1071928833 và số 1071928836 ngày 12/11/2019 tại Phòng một cửa Ủy ban nhân dân thành phố N tiếp nhận. Ngày 26/11/2019, ông T nhận được kết quả kiểm tra hồ sơ, xác nhận hiện trạng, tình trạng tranh chấp, nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất tại địa phương theo Thông báo số 2029 và số 2030 của Ủy ban nhân dân xã V.

Theo đó, Ủy ban nhân dân xã V cho rằng các thửa đất ông T đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc đất công ích (đất 5%) do Ủy ban nhân dân xã V quản lý. Ngày 10/12 /2019 ông T đã có đơn khiếu nại đối với các Thông báo số 2029 và 2030 ,v/v niêm yết công khai kết quả kiểm tra cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với ông Huỳnh T của Ủy ban nhân dân xã V nêu trên nhưng Ủy ban nhân dân xã V, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố N và Ủy ban nhân dân thành phố N không xem xét giải quyết. Ngày 10/01/2020, ông T nhận được Thông báo số 04/TB-UBND ngày 03/01/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố N về việc trả hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính, không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Huỳnh t với lý do “Các thửa đất đăng ký xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên thuộc đất công ích (đất 5%) do UBND xã V quản lý”. Việc này là không có căn cứ, nếu Ủy ban nhân dân thành phố N cho rằng thửa đất ông T đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất do Nhà nước quản lý thì đề nghị làm rõ nguồn gốc đất theo Điều 132 Luật đất đai 2013 (Ông T không cho đất). Nếu đất không do Nhà nước quản lý thì Ủy ban nhân dân xã V đang sử dụng đất của người dân (ông Huỳnh T). Thông báo số 04/TB-UBND ngày 03/01/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố N là vi phạm pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông T, vi phạm pháp luật về thừa kế, Luật đất đai năm 2013 và pháp luật dân sự mà Nhà N đã quy định. Do đó, ông T yêu cầu Tòa án hủy Thông báo số 04/TB-UBND ngày 03/01/2020 của UBND thành phố N.

* Tại văn bản số 2467/UBND-TNMT ngày 13/4/2020 người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố N trình bày:

Năm 2019, ông Huỳnh Thanh l1 thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại tổ B thôn H, xã V, thành phố N đối với hồ sơ cấp giấy chứng nhận theo Biên nhận hồ sơ số 1071828835, gồm các thửa đất: 679 + 672 + 592 + 739 + 738 + 593 + 741 + 588 + 742 + 520 + 743 + 521 + 522 + (515 + 514 + 740 + 678) (một phần), tờ bản đồ 02, tổng diện tích đất: 4.706,8m2 tại thôn H, xã V, thành phố N và hồ sơ cấp giấy chứng nhận theo Biên nhận hồ sơ số 1071828836, gồm các thửa đất: 438 + 440 + 424 + 411 + 442 + 512 + 513 + 523 + 524 + 525 + 587 + 526 + 527 + 586 + 585 + 584 + 583 + 582 + 581 + 594 +595 +597 + 600 + 601 + 602 + (670 + 669 +596 + 668 +599 + 580 + 528 +509 + 511 + 443 +423 + 425 + 439) (một phần), tờ bản đồ 02, tổng diện tích đất: 11.070,6m2 tại thôn H, xã V, thành phố N.

Sau khi Chi nhánh Văn phòng Đ (Chi nhánh N1) tiếp nhận hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận lần đầu, Chi nhánh N1 đã có Văn bản số 26235/CNNT và 26234/CNNT ngày 12/11/2019 chuyển hồ sơ trên cho Ủy ban nhân dân xã V để xác minh nguồn gốc và quá trình sử dụng của các thửa đất trên theo quy định tại Khoản 2, Điều 70 Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Ủy ban nhân dân xã V đã tiến hành kiểm tra hiện trạng, nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, niêm yết danh sách công khai kết quả kiểm tra hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận số 2030/DSTB-UBND và 2029/DSTB-UBND ngày 26 tháng 11 năm 2019, xác định: Đất nông nghiệp, các thửa đất đăng ký cấp Giấy chứng nhận thuộc đất công ích (đất 5%) do Ủy ban nhân dân xã V quản lý. Hiện trạng trên đất có nhà văn hóa thôn H. Căn cứ khoản 2 Điều 19 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định các trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sử hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất: “Người đang quản lý, sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn”. Ủy ban nhân dân thành phố N đã ban hành Thông báo số 04/TB-UBND ngày 03/01/2020 về việc từ chối giải quyết hồ sơ cấp Giấy chứng nhận của ông Huỳnh T là đúng quy định. Ủy ban nhân dân thành phố N không đồng ý với yêu cầu của người khởi kiện.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân xã V trình bày:

Căn cứ Danh sách Tổng hợp diện tích đất 5% xã V ngày 28/10/2005 của UBND xã V; Căn cứ Công văn số 535/UBND ngày 11/11/2008 của UBND xã V về việc tổng hợp diện tích đất công ích theo chỉ thị 04; Bản đồ 64 xã V đo đạc năm 1990-1994, thì các thửa đất 679; 672; 592; 739; 738; 593; 741; 588; 742; 520; 743; 521; 522; 515; 514;740; 678; 438; 440; 424; 411; 442; 512; 513; 523; 524; 525; 587; 526; 527; 586; 585; 583; 582; 581; 594; 595; 597; 600; 601; 602; 670; 669; 596; 668; 599; 580; 528; 509;511; 443; 425; 439 tờ bản đồ số 2, thôn H, xã V là đất 5%, đất công ích do UBND xã V quản lý.

Ủy ban nhân dân xã V đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 29/2022/HC-ST ngày 09/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hoà đã quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 193; khoản 1 Điều 348 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh T về yêu cầu hủy Thông báo số 04/TB-UBND ngày 03/01/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố N.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 19/9/2022, người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện là ông Huỳnh T1 kháng cáo đề nghị tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại vụ án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh T.

Tại phiên tòa Đại diên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính - Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Huỳnh T, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận; Xét thấy:

[1] Xét kháng cáo của ông Huỳnh T; nhận thấy:

[1.1]. Về nguồn gốc diện tích đất:

- Ngày 25/02/1960, ông Huỳnh L (cha ông Huỳnh T) có Tờ khai tình trạng hiện hữu đất chiếm canh thuộc công hoang thổ, có xác nhận của Đại diện xã V (BL 43); trong đó xác định; Diện tích đất chiếm canh là 12.500 thước vuông, tự chiếm canh năm 1955, đất thuộc khối công sản quốc gia;

- Ngày 02/01/1975, Trưởng Ty điền địa tỉnh Khánh Hòa có Biên nhận đơn xin đặc nhượng đất của ông Huỳnh L, với diện tích đất 03ha, tại xã V (BL 42); trong đó phần ghi chú có ghi: Việc cấp biên nhận này không có nghĩa lô đất xin đã được chánh quyền chấp nhận, người nộp đơn không có quyền gì trên đất trước khi được cấp.

Như vậy có căn cứ xác định diện tích đất này là thuộc công sản quốc gia, ông Huỳnh L đã sử dụng từ năm 1955 và chính quyền chế độ cũ cũng không có ý kiến gì. [1.2]. Về quá trình sử dụng, kê khai diện tích đất của ông Huỳnh T:

- Ngày 30/7/1997, ông Huỳnh T có Tờ khai diện tích tính thuế đất nông nghiệp và thuế đất ở nông thôn với tổng diện tích là 10.135m2; trong đó có kê khai diện tích đất chiếm canh nêu trên; gồm các thửa: 581, 584, 427, 509, 523, 521, 526 và 557;

- Từ năm 1996 đến năm 1999 (04 năm), ông T có nộp thuế sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích kê khai trên.

- Tại Sổ dã ngoại do UBND xã V lập phần kê khai thể hiện ông Huỳnh T sử dụng 10 thửa đất thuộc khu Hòn Nghê, gồm các thửa 508, 509, 523, 524, 525, 526, 580, 581, 584 và 587 (BL 85 – 105).

[1.3]. Quá trình quản lý của Nhà nước đối với diện tích đất này:

- Tại Thông báo số 207/UB ngày 25/11/2002 của UBND xã V, V/v Thu hồi diện tích đất công ích 5%; trong đó có quy định: “Vậy các hộ đang nhận khoán trước đây phải giao trả mặt bằng để xã quản lý. Những hộ, cá nhân có nhu cầu nhận khoán phải làm đơn xin nhận khoán và gửi về UBND xã V nhất là ngày 15/12/2002” (BL 77). Tuy nhiên, theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án không thể hiện việc UBND xã V có thu hồi diện tích đất mà ông Huỳnh T sử dụng. Mặt khác, trong Danh sách H2 nhận khoán đất màu do HTX nông nghiệp xã V lập ngày 06/10/1995 (BL 75-76) và Danh sách sản lượng nhận khoán đất 5% năm 2002 do UBND xã V (BL 72-74) đều không có tên ông Huỳnh Thanh n khoán và nộp sản lượng khoán.

- Tại Biên bản kiểm tra thực địa ngày 18/8/2017 của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố N, xác định: “Khu 2: Theo trích đo địa chính do Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ xác nhận ngày 04/10/2012 bao gồm các thửa....; diện tích 11.070,6m2. Hiện trạng trên đất có 03 ngôi nhà; kết cấu Chái tôn, mái ngói, vách gỗ, nền xi măng. Hiện trạng trên đất có một số cây dừa, xoài, cây me, cây chuối, cây cau, cây mãn cầu và đang canh tác rau màu, trồng rau; hiện trạng ông T đang ở ổn định trên đất từ năm 1960 đến nay” (BL 45);

- Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 11/3/2022 do Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa thực hiện, xác định: “Trên các thửa đất 523, 525, 587 diện tích khoản 200m2 hiện có 02 ngôi nhà cấp 4, hiện do ông Huỳnh T, Huỳnh T1 cùng quản lý, sử dụng, theo ông Huỳnh T1 nhà trên được xây dựng từ trước năm 1980. Trên các thửa 524, 527, 530 có cây me, mít, xoài, dừa, có trồng rau, ông Huỳnh T ở ổn định khoảng từ năm 1960 đến nay”.

- Mặt khác, trong quá trình gia đình ông Huỳnh T sử dụng các ngôi nhà, làm vườn trồng cây lâu năm cũng không bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính.

Như vậy, theo quy định tại Điều 101 của Luật đất đai năm 2013 (Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất); và Điều 20 Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật đất đai (Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm luật đất đai), thì ông Huỳnh Thanh đ điều kiện để xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với các thửa đất mà hộ ông đang sử dụng liên tục từ 1960 đến nay thuộc tờ bản đồ số 02, tại thôn H, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa theo Biên bản kiểm tra thực địa ngày 18/8/2017 của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh K phối hợp với Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố N thực hiện và Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 11/3/2022 do Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa thực hiện.

Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của ông Huỳnh T; sửa một phần bản án sơ thẩm.

[2]. Về án phí:

- Về án phí hành chính sơ thẩm: UBND thành phố N phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm; ông Huỳnh T không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.

- Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần, nên ông Huỳnh T không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Huỳnh T; sửa một phần bản án sơ thẩm.

Căn cứ Điều 101 của Luật đất đai năm 2013; Điều 20 Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số Điều của Luật đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh T.

- Hủy một phần Thông báo số 04/TB-UBND ngày 03/01/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố N, V/v từ chối giải quyết hồ sơ, đối với phần diện tích đất mà ông Huỳnh T đang quản lý sử dụng có nhà ở và trồng cây lâu năm tại các thửa 523, 524, 525, 527, 530, 587 thuộc tờ bản đồ số 02, thôn H, xã V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

2. Về án phí hành chính sơ thẩm:

- UBND thành phố N phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm;

- Ông Huỳnh T không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả cho ông T 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm tại Biên lai thu tiền số AA/2016/0001173 ngày 27/02/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa (do ông Huỳnh T1 nộp thay).

3. Về án phí phúc thẩm: Ông Huỳnh T không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Hoàn trả cho ông T 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009980 ngày 22/9/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 266/2023/HC-PT

Số hiệu:266/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về