Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 20/2024/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 20/2024/HC-PT NGÀY 23/01/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 23 tháng 01 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kết nối điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hành chính thụ lý số 295/2023/TLPT-HC ngày 01 tháng 11 năm 2023 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 33/2023/HC-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:

614/2023/QĐ-PT ngày 26 tháng 12 năm 2023; giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: ông Nguyễn T, sinh năm 1938 và bà Trần Thị C, sinh năm 1942; cùng địa chỉ: số 22 Đường P, phường T1, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Văn Th, sinh năm 1975; địa chỉ: 32 đường L, phường D, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Nguyễn Hữu T2, Văn phòng Luật sư Hữu Tự, Đoàn Luật sư tỉnh Gia Lai. Địa chỉ: 32 đường L, phường D, thành phố P, tỉnh Gia. Vắng.

- Người bị kiện:

1. Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

2. Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Văn N1 - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Bà Lê Thị Kim C - Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Phạm Tấn T2 -Tổ trưởng Tổ bồi thường, giải pgongs mặt bằng số 3 - Trung tâm Phát triến quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

2. Ủy ban nhân dân phường T1, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Huỳnh Tấn D1 - Công chức Địa chính - xây dựng Ủy ban nhân dân phường T1, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:

Năm 2007, gia đình ông (Nguyễn T, bà Trần Thị C) nhận chuyển nhượng mảnh vườn tại thửa đất số 5, tờ bản đồ số 13, 19 phường T1 và tờ bản đồ địa chính số 14 phường L1, diện tích 326,3m2 từ hộ gia đình ông Lê Trọng C1 để canh tác, sản xuất hoa màu và các sản phẩm từ nông nghiệp. Đây là ngành nghề chính và là nguồn thu nhập chính để nuôi sống gia đình, đồng thời làm nơi ở cho các thành viên trong gia đình khi đủ điều kiện, thì UBND Thành phố Q có thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng trụ sở Kho bạc nhà nước Quảng Ngãi. Sau đó UBND Thành phố Q ban hành các quyết định số 10525, 10765 và 2563 thu hồi, hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất của gia đình ông bà. Theo đó, gia đình ông bà bị thu hồi toàn bộ 228,7m2 và được bồi thường, hỗ trợ về đất; nhà cửa, vật kiến trúc, cây cối hoa màu và các khoản hỗ trợ với số tiền 90.949.000 đồng (Chín mươi triệu chín trăm bốn mươi chín ngàn đồng). Trong đó, bồi thường về đất trồng cây hàng năm chỉ 300.000 đồng/m2 (Ba trăm ngàn đồng trên mét vuông). Việc áp mức bồi thường, trong quyết định của UBND Thành phố Q sử dụng quy định cũ, không phù hợp theo biến động, diễn biến về đất đai tại thời điểm thu hồi vào năm 2022. Việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất đối với ông bà như trên là quá thấp trong khi đời sống gia đình ông bà khó khăn, làm nông nghiệp là chính, con cái chưa có nhà ở ổn định và lô đất là tài sản lớn, duy nhất của gia đình nên với mức bồi thường như vậy gây bức xúc, thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và ổn định đời sống của gia đình ông bà. Ông bà đã gửi đơn đi nhiều cơ quan có thẩm quyền đề nghị xem xét lại việc thu hồi và bồi thường đất nói trên nhưng vẫn không được giải quyết thỏa đáng.

Ngày 20/10/2022, Chủ tịch UBND Thành phố Q ban hành Quyết định số 6088/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của ông Nguyễn T và bà Trần Thị C (địa chỉ: Số 22 Đường P, phường T1, Tp.Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi), theo đó không chấp nhận nội dung khiếu nại của gia đình ông T. Gia đình ông bà có đơn khiếu nại lần 2 lên UBND tỉnh Quảng Ngãi nhưng sau đó đã rút đơn khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính ra Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi để xem xét giải quyết hủy:

- Quyết định số 10525/QĐ-UBND ngày 27/12/2021 của UBND thành phố Q về việc thu hồi đất của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C đang sử dụng tại phường T1 để thực hiện dự án: Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (phương án đợt 2).

- Quyết định số 10765/QĐ-UBND ngày 30/12/2021 của UBND thành phố Q về việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C đang sử dụng thuộc phường T1, thành phố Q để thực hiện dự án: Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (phương án đợt 2).

- Quyết định số 2563/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 của Chủ tịch UBND thành phố Q về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C, công dân phường T1, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi để thực hiện dự án: Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi.

- Quyết định số 6088/QĐ-UBND ngày 20/10/2022 của Chủ tịch UBND thành phố Q về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C (địa chỉ: Số 22 Đường P, phường T1, thành phố Q).

- Buộc UBND thành phố Q và Chủ tịch UBND thành phố Q tiến hành lại trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C tại thửa số 5, tờ bản đồ địa chính khu đất số 01, phường T1 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00030QSDĐ/288/QĐ-UB, thửa đất số 5, tờ bản đồ địa chính số 13, 19 phường T1 và tờ bản đồ địa chính số 14 phường L1 diện tích 326,3m2) theo đúng quy định pháp luật.

*Tại Văn bản số 327/UBND-NC ngày 13/02/2023, người bị kiện UBND, Chủ tịch UBND thành phố Q trình bày:

- Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi, được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 2360/QĐ-BTC ngày 28/10/2016; Chính phủ điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) tỉnh Quảng Ngãi tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 14/11/2018; Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thông qua danh mục bổ sung công trình, dự án phải thu hồi đất năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tại Nghị quyết số 07/2019/NQ-HĐND ngày 10/7/2019 và UBND tỉnh Quảng Ngãi phê duyệt bổ sung danh mục các công trình, dự án vào Kế hoạch sử dụng đất năm 2019 cấp huyện tại Quyết định số 610/QĐ-UBND ngày 08/8/2019. Dự án do Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi làm Chủ đầu tư và Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh là đơn vị được hợp đồng thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án.

- Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C:

Ngày 13/5/2021, UBND thành phố Q ban hành Thông báo số 211/TB- UBND để điều chỉnh một số nội dung Thông báo số 5439/TB-UBND ngày 09/12/2019, cụ thể nội dung điều chỉnh: Thông tin ban hành: Chủ sử dụng đất. Hộ ông (bà) Trần C1. Thửa đất số 5, thuộc tờ bản đồ địa chính khu đất, tờ bản đồ địa chính số 13, 19 phường T1 và tờ bản đồ địa chính số 14 phường Lê Hồng hiện ngày 06/10/2019. Thông tin điều chỉnh: Chủ sử dụng đất: ông Nguyên T và bà Trần Thị C. Thửa đất số 5, thuộc tờ bản đồ địa chính khu đất, tờ bản đồ địa chính số 13, 19 phường T1 và tờ bản đồ địa chính số 14 phường L1, thành phố Q, do Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Quảng Ngãi thực hiện ngày 15/4/2021.

Ngày 31/8/2020, ngày 27/11/2020 và ngày 18/6/2021, UBND phường T1 phát hành Giấy mời cho các hộ dân (trong đó có mời ông Nguyễn T) có đất thuộc Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi để vận động hợp tác đo đạc kiểm kê, kiểm đếm, lập phương án bồi thường, hỗ trợ theo quy định, nhưng hộ ông Nguyễn T luôn vắng mặt mà không có lý do (thể hiện tại các biên bản họp ngày 09/9/2020, ngày 30/11/2020, ngày 22/6/2021).

Ngày 28/5/2021 và ngày 02/6/2021, UBND phường T1 mời ông Nguyễn T, bà Trần Thị C đến tại Nhà văn hóa tổ 6, phường T1 để phối hợp với Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh, UBND phường T1, các cơ quan có liên quan và đại diện tổ dân phố tiến hành thực hiện việc kê khai, khảo sát đất đai và tài sản trên đất nằm trong vùng quy hoạch Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi nhưng ông Nguyễn T, bà Trần Thị C không phối hợp (thể hiện tại các biên bản ngày 01/6/2021, ngày 04/6/2021).

Do ông Nguyễn T, bà Trần Thị C không phối hợp nên Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 4267/QĐ-UBND ngày 21/7/2021 để áp dụng biện pháp kiểm đếm bắt buộc đối với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C, đang sử dụng thửa đất số 05, tờ bản đồ địa chính khu đất số 01 thuộc dự án Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (nguyên là thửa đất số 01, tờ bản đồ địa chính số 03 phường T1, thành phố Q được UBND thị xã Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/8/1999 cho hộ ông Lê Trọng C1; ngày 31/12/2007, ông Lê Trọng C1, bà Cao Thị L3 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn T và bà Trần Thị C được UBND phường T1 chứng thực), do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh thực hiện đo vẽ, diện tích thửa đất 326,3m2 mục đích sử dụng đất: đất trồng cây hàng năm khác (BHK), diện tích đất nằm trong quy hoạch để thực hiện dự án là 228,7m2. Sau khi có quyết định kiểm đếm bắt buộc, UBND phường T1 phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức giao quyết định cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C và niêm yết công khai quyết định tại trụ sở UBND phường, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi (thể hiện tại các Biên bản giao quyết định ngày 27/7/2021, ngày 29/7/2021 và biên bản niêm yết ngày 22/7/2021, biên bản kết thúc niêm yết ngày 05/8/2021).

Ngày 08/9/2021, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 5507/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định kiểm đếm bắt buộc đối với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C, thường trú phường T1, thành phố Q để thực hiện dự án Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi. Sau khi có quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc, UBND phường T1 phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức, thực hiện giao quyết định cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C và niêm yết công khai quyết định tại trụ sở UBND phường, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi (thể hiện tại Biên bản giao quyết định ngày 13/9/2021 và biên bản niêm yết ngày 09/9/2021, biên bản kết thúc niêm yết ngày 20/9/2021) và tổ chức vận động ông T, bà C thực hiện quyết định cưỡng chế (thể hiện tại biên bản ngày 22/9/2021).

Ngày 30/9/2021, Tổ công tác thực hiện Quyết định kiểm đếm bắt buộc phối hợp với Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh và đại diện hộ dân có đất bị thu hồi tiến hành lập Biên bản kiểm kê đất đai và tài sản trên đất bị thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C đối với thửa đất số 05, tờ bản đồ địa chính khu đất số 01, thuộc dự án Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi, gồm: Về đất đai: Thửa đất số 05, tờ bản đồ số 01, diện tích thửa đất 326,3m2 mục đích sử dụng đất: đất trồng cây hàng năm khác (BHK), diện tích đất nằm trong quy hoạch để thực hiện dự án là 228,7m2; Về nhà, công trình phục vụ đời sống, sản xuất và công trình khác: Giếng đóng bằng ống PVC phi 60 có 01 cái, sâu 20m; Về cây cối, hoa màu: Keo có đường kính gốc lớn hơn 3cm và nhỏ hơn 7cm có 45 cây, Keo có đường kính gốc lớn hơn 7cm và nhỏ hơn 10cm có 40 cây, Keo có đường kính gốc lớn hơn 10cm và nhỏ hơn 14cm có 15 cây và chuối chưa cho buồng có 09 cây.

Trên cơ sở Biên bản kiểm kê ngày 30/9/2021; Bảng kết quả xác minh, lấy ý kiến của khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất ghi ngày 07/10/2021; Giấy xác nhận về quyền sử dụng đất của ông T, bà C ghi ngày 14/10/2021 và nội dung xác nhận hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp của UBND phường T1 tại Công văn số 328/UBND ngày 14/10/2021; cùng ngày 27/12/2021, UBND thành phố ban hành Quyết định số 10525/QĐ- UBND thu hồi 228,7m2 đất, loại đất BHK, ở phường T1 thuộc thửa đất số 5, tờ bản đồ địa chính khu đất số 1, Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C và Quyết định số 10524/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (đợt 2); trong đó đối với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C, xác định phương án bồi thường, hỗ trợ như sau:

(1) Việc xác định đơn giá để tính bồi thường, hỗ trợ về đất:

+ Đơn giá bồi thường đất nông nghiệp: 50.000 đồng/m2 (theo Quyết định số 11/2020/QĐ-UBND ngày 08/6/2020 của UBND tỉnh Quảng Ngãi).

+ Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp: 250.000 đồng/m2 (theo quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 23 Quyết định số 48/2017/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của UBND tỉnh Quảng Ngãi).

+ Hệ số điều chỉnh giá đất: 1,0 lần (theo Quyết định số 528/2020/QĐ- UBND ngày 25/6/2021 của UBND tỉnh Quảng Ngãi).

Như vậy, giá đất để tính bồi thương, hỗ trợ là: (50.000 + 250.000) x 1,0 = 300.000 đồng/m2 và tổng giá trị bồi thường đất (loại đất BHK, vị trí 1) là:

228,7m2 x 300.000 đồng = 68.610.000 đồng.

(2) Tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ cây cối, hoa màu: 10.635.000 đồng (theo Điều 19 Quyết định số 48/2017/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của UBND tỉnh Quảng Ngãi).

(3) Hỗ trợ đời sống: 8.280.000 đồng (theo điểm b, Khoản 2, Điêu 22 Quyết định số 48/2017/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của UBND tỉnh Quảng Ngãi).

(4) Bồi thường nhà cửa, vật kiến trúc: 3.424.000 đồng (theo Quyết định số 50a/2017/QĐ-UBND ngày 21/8/2017 của UBND tỉnh Quảng Ngãi).

Ngày 30/12/2021, UBND thành phố ban hành Quyết định số 10765/QĐ- UBND bồi thường, hỗ trợ cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C để thực hiện Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (Phương án đợt 2). Với tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ: 90.949.000 đồng (trong đó: Bồi thường, hỗ trợ về đất 68.610.000 đồng; bồi thường nhà cửa, vật kiến trúc: 3.424.000 đồng; bồi thường, hỗ trợ về cây cối hoa màu: 10.635.900 đồng và các khoản hỗ trợ:

8.280.000 đồng).

Ngày 18/01/2022, UBND phường T1 thực hiện bàn giao các quyết định của UBND thành phố: số 10525/QĐ-UBND ngày 27/12/2021 và số 10765/QĐ- UBND ngày 30/12/2021 cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C nhưng ông T, bà C không hợp tác (có biên bản làm việc ngày 18/01/2022) và đến ngày 20/01/2022 UBND phường T1 tiếp tục giao quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường, hỗ trợ thì ông Nguyễn T đã nhận các quyết định nhưng không ký xác nhận.

Sau khi phương án được phê duyệt, các quyết định thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C được ban hành, thì ngày 21/02/2022, ngày 24/2/2022, ngày 08/3/2022 Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Chủ đầu tư, UBND phường T1 phát hành giấy mời cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C để tiến hành thực hiện chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ theo quy định, nhưng ông Nguyễn T, bà Trần Thị C không hợp tác, không đến nhận tiền và cũng không bàn giao mặt bằng.

Trên cơ sở đề nghị của Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh tại Tờ trình số 142/TTr-TTPTQĐ ngày 06/4/2022; UBND phường T1 tại Báo cáo số 38/BC- UBND ngày 06/4/2022; Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố tại Tờ trình số 126/TTr-TNMT ngày 21/4/2022, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 2563/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 về việc cưỡng chế thu hồi đất với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C, công dân phường T1, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi để thực hiện Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi. Sau khi có Quyết định cưỡng chế thu hồi đất, UBND phường T1 đã tổ chức giao Quyết định và thực hiện niêm yết công khai tại trụ sở UBND phường T1 và Điểm sinh hoạt tổ dân phố 6 (có các biên bản niêm yết ngày 27/5/2022 và biên bản kết thúc niêm yết ngày 13/6/2022) và UBND thành phố tổ chức cưỡng chế theo quy định của pháp luật.

- Không đồng ý với việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và cưỡng chế thu hồi đất, ông T, bà C có đơn khiếu nại nêu trên, được Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 4631/QĐ-UBND ngày 28/02/2022 về việc thụ lý và giao Tổ công tác 3890 thẩm tra, xác minh nội dung khiếu nại của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C.

Nhận định vụ việc:

Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi, được Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số 2360/QĐ-BTC ngày 28/10/2016; Chính phủ điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) tỉnh Quảng Ngãi tại Nghị quyết số 143/NQ-CP ngày 14/11/2018; Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thông qua danh mục bổ sung công trình, dự án phải thu hồi đất năm 2019 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tại Nghị quyết số 07/2019/NQ-HĐND ngày 10/7/2019 và UBND tỉnh Quảng Ngãi phê duyệt bổ sung danh mục các công trình, dự án vào Kế hoạch sử dụng đất năm 2019 cấp huyện tại Quyết định số 610/QĐ-UBND ngày 08/8/2019. Căn cứ chủ trương đầu tư, phê duyệt đầu tư dự án, hồ sơ địa chính, Biên bản kiểm kê đất đai, tài sản bị thiệt hại ngày 30/9/2021, Thông báo thu hồi đất số 211/TB-UBND ngày 13/5/2021 và xác nhận của các phường T1; ngày 27/12/2021, UBND thành phố ban hành Quyết định số 10525/QĐ-UBND thu hồi 228,7m2 đất, loại đất BHK, ở phường T1 thuộc thửa đất số 5, tờ bản đồ địa chính khu đất số 1, Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C là đảm bảo quy định tại khoản 3 Điều 62 và Điều 63 Luật Đất đai năm 2013.

Như vậy, việc ông Nguyễn T, bà C khiếu nại Quyết định số 10525/QĐ- UBND ngày 27/12/2021 của UBND thành phố là không có cơ sở xem xét, giải quyết.

- UBND thành phố ban hành Quyết định số 10765/QĐ-UBND ngày 30/12/2021 bồi thường, hỗ trợ cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C để thực hiện Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (phương án đợt 2), với tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ: 90.949.000 đồng (trong đó: Bồi thường, hỗ trợ về đất: 68.610.000 đồng; bồi thường nhà cửa, vật kiến trúc: 3.424.000 đồng; bồi thường, hỗ trợ về cây cối hoa màu: 10.635.900 đồng và các khoản hỗ trợ:

8.280.000 đồng) là đảm bảo theo quy định về loại đất được bồi thường; về giá đất, giá tài sản có trên đất được bồi thường và khoản hỗ trợ được quy định tại các Quyết định của UBND tỉnh, gồm: số 11/2020/QĐ-UBND ngày 08/6/2020; số 528/QĐ-UBND ngày 25/6/2021; số 1021/QĐ-UBND ngày 28/10/2021; số 48/2017/QĐ-UBND ngày 18/8/2017; số 50a/2017/QĐ-UBND ngày 21/8/2017; số 17/2018/QĐ-UBND ngày 17/7/2018. Do đó, ông Nguyễn T, bà Trần Thị C khiếu nại Quyết định số 10765/QĐ-UBND ngày 30/12/2021 của UBND thành phố và cho rằng giá bồi thường về đất còn thấp là không có cơ sở xem xét, giải quyết.

- Sau khi phương án được phê duyệt; quyết định thu hồi đất; quyết định bồi thường, hỗ trợ của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C được ban hành, UBND phường T1 phối hợp với Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh, các cơ quan, đơn vị liên quan vận động, thuyết phục ông Nguyễn T, bà Trần Thị C nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng nhưng ông Nguyễn T, bà Trần Thị C không hợp tác, không đến nhận tiền và cũng không bàn giao mặt bằng, nên Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 2563/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C, công dân phường T1, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi để thực hiện dự án Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi là đúng thẩm quyền, đúng nội dung và tuân thủ đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định tại điểm d khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 2 Điều 11 Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Ông Nguyễn T, bà Trần Thị C khiếu nại Quyết định số 2563/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 của Chủ tịch UBND thành phố là không có cơ sở xem xét, giải quyết.

Trên cơ sở đó, ngày 11/10/2022 Tổ công tác 3890 đã tham mưu UBND thành phố tổ chức đối thoại với ông T, bà C theo quy định và Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 6088/QĐ-UBND ngày 20/10/2022 về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C, không công nhận toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C đối với các: Quyết định số 10525/QĐ-UBND ngày 27/12/2021 của UBND thành phố về việc thu hồi đất của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C đang sử dụng thuộc phường T1 để thực hiện Dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi; Quyết định số 10765/QĐ-UBND ngày 30/12/2021 của UBND thành phố về bồi thường, hỗ trợ cho ông T, bà C; Quyết định số 2563/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 của Chủ tịch UBND thành phố Q về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông T, bà C để thực hiện dự án: Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi.

Ông Nguyễn T, bà Trần Thị C khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh hủy các Quyết định: số 10525/QĐ-UBND ngày 27/12/2021, số 10765/QĐ-UBND ngày 30/12/2021, số 2563/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 và số 6088/QĐ-UBND ngày 20/10/2022 là không có căn cứ.

* Tại Văn bản số 297/TTPTQĐ ngày 21/02/2023, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi trình bày:

Nguyên thửa đất này của hộ ông Lê Trọng C1 và bà Cao Thị L3 được UBND thị xã Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00030 cấp ngày 21/8/1999 gồm 02 thửa đất: Thửa đất số 501, tờ bản đồ số 02, diện tích 487 m2, loại đất ĐRM và thửa đất số 03 tờ bản đồ số 01, diện tích 257 m2, loại đất ĐRM (Bản đồ đo vẽ năm 1993). Ngày 31/12/2007, ông Lê Trọng C1 và bà Cao Thị L3 chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 03 tờ bản đồ số 01, diện tích 257 m2, loại đất ĐRM cho ông Nguyễn T và bà Trần Thị C theo hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất được UBND phường T1 chứng thực số 759, quyển số 01/TP/CC-SCT/HĐGD ngày 31/12/2007 và đã được niêm yết theo thông báo 67a/TB-UBND ngày 14/9/2021 của UBND phường T1. Ông Nguyễn T và bà Trần Thị C sử dụng ổn định liên tục từ đó đến nay không tranh chấp, không lấn chiếm và chưa lập thủ tục sang tên.

Quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ:

Trên cơ sở biên bản kiểm kê đất đai và tài sản trên đất bị thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất được xác lập ngày 30/9/2021, được Tổ công tác cưỡng chế thực hiện Quyết định kiểm đếm bắt buộc xác nhận, Trung tâm lập các thủ tục được UBND phường T1 xác nhận về nguồn gốc đất, tổng diện tích đất nông nghiệp, tỷ lệ % mất đất và hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất đất nông nghiệp ngày 14/10/2021, đồng thời Trung tâm có Công văn số 732/TTPTQĐ ngày 13/10/2021 về việc xác nhận hộ gia đình, cá nhân có thuộc đối tượng được giao đất nông nghiệp khi thực hiện Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của chính phủ và được UBND phường T1 phúc đáp tại Công văn số 328/UBND ngày 14/10/2021“...ông Nguyễn T và bà Trần Thị C là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, có nguồn thu nhập ổn định từ nông nghiệp và là đối tượng đủ điều kiện giao đất nông nghiệp trước đây theo Nghị định 64/CP của Chính phủ”.

* Việc xác định đơn giá để tính bồi thường, hỗ trợ về đất:

Đơn giá bồi thường đất nông nghiệp: 50.000 đồng (theo Quyết định số 11/2020/QĐ-UBND ngày 08/6/2020 của UBND tỉnh Quảng Ngãi).

- Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp: Theo xác nhận của UBND phường T1 (tại Công văn số 328/UBND ngày 14/10/2021) thì ông Nguễn T và bà Trần Thị C thuộc đối tượng được giao đất nông nghiệp theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993, nên đủ điều kiện tính hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp.

- Hệ số điều chỉnh giá đất: 1,0 lần (theo Quyết định 528/QĐ-UBND ngày 25/6/2021 của UBND tỉnh Quảng Ngãi).

Từ căn cứ trên, Trung tâm lập phương án bồi thường, hỗ trợ và được UBND thành phố phê duyệt tại Quyết định số 10524/QĐ-UBND ngày 27/12/2021 (đợt 2) đối với ông Nguyễn T và bà Trần Thị C, với số tiền là:

90.949.000 đồng. Diện tích đất lập phương án bồi thường, hỗ trợ và thu hồi là:

228,7m2 (đất BHK);Trong đó: Bồi thường, hỗ trợ về đất: 68.610.000 đồng; Bồi thường nhà cửa, vật kiến trúc: 3.424.000 đồng; Bồi thường, hỗ trợ cây cối, hoa màu: 10.635.000 đồng; Các khoản hỗ trợ: 8.280.000 đồng Ngày 27/12/2021, UBND thành phố ban hành Quyết định số 10525/QĐ- UBND về việc thu hồi đất của Ông Nguyễn T và bà Trần Thị C để thực hiện dự án. Ngày 30/12/2021, UBND thành phố ban hành Quyết định số 10765/QĐ- UBND về việc bồi thường, hỗ trợ cho Ông Nguyễn T và bà Trần Thị C để thực hiện dự án.

Thực hiện Quyết định số 10524/QĐ-UBND ngày 27/12/2021 của UBND thành phố Q về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án: Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (phương án đợt 2). Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi đã phối hợp với UBND phường T1 và các hội đoàn thể Thông báo mời ông Nguyễn T và bà Trần Thị C để công khai Quyết định phê duyệt, bàn giao Quyết định thu hồi đất, Quyết định bồi thường chi tiết và nhận tiền 03 lần (lần 1: ngày 20/01/2022, lần 2: ngày 23/02/2022, lần 3: ngày 26/02/2022). Cả 03 lần mời ông Nguyễn T và bà Trần Thị C đều không đến dự họp, vắng mặt không lý do (bà Nguyễn Thị K là con đẻ của ông Nguyễn T và bà Trần Thị C đã nhận Quyết định thu hồi đất và Quyết định bồi thường chi tiết, nhưng không thống nhất nhận tiền bồi thường, hỗ trợ).

Vào ngày 09/3/2022, Trung tâm phối hợp với UBND phường T1 và các đơn vị có liên quan tổ chức mời vận động hộ gia đình, cá nhân nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng, tuy nhiên ông Nguyễn T và bà Trần Thị C không đến dự họp, vắng mặt không lý do. Ngày 28/3/2022, Ông Nguyễn T cùng một số hộ dân có đất bị thu hồi thuộc dự án Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà Nước Quảng Ngãi có đơn với nội dung: Nhà nước phải trung cầu thẩm định giá cụ thể theo Nghị định 43,44,45 bồi thường sát với giá trị bồi thường, giá thực tế hiện tại. Chưa đồng ý nhận tiền bồi thường và chưa bàn giao mặt bằng nếu chưa được thỏa thuận. Ngày 27/4/2022, UBND thành phố đã có Công văn số 1401/UBND- TCD về việc trả lời đơn cho ông Nguyễn T và một số hộ dân có đất bị thu hồi thuộc dự án Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà Nước Quảng Ngãi. Ngày 06/4/2022, UBND phường T1 có Báo cáo số 38/UBND về tình hình thực hiện và tồn tại, vướng mắc liên quan đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng dự án: Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi. Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh có Tờ trình số 142/TTr-TTPTQĐ ngày 06/4/2022 về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn T và bà Trần Thị C, công dân phường T1 để thực hiện Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi. Ngày 27/5/2022 Chủ tịch UBND thành phố Q ban hành Quyết định số 2563/QĐ- UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối ông Nguyễn T và bà Trần Thị C, công dân phường T1 để thực hiện dự án Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi. Ngày 31/5/2022, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với UBND phường T1, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường, Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (chủ đầu tư) và các đơn vị liên quan mời ông Nguyễn T và bà Trần Thị C đến UBND phường T1 để bàn giao Quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tiếp tục vận động, thuyết phục ông Nguyễn T và bà Trần Thị C nhận tiền bồi thường, hỗ trợ bàn giao mặt bằng. Tuy nhiên ông Nguyễn T không có mặt (bà Nguyễn Thị Kinh là con đẻ của ông Nguyễn T đại diện).Tại buổi vận động, thuyết phục bà Nguyễn Thị K đồng ý nhận Quyết định cưỡng chế thu hồi đất của cha mẹ là ông Nguyễn T và bà Trần Thị C, nhưng không thống nhất nhận tiền bồi thường, hỗ trợ.

Từ những diễn biến và căn cứ các quy định pháp luật, Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh lập phương án bồi thường, hỗ trợ đối với ông Nguyễn T và bà Trần Thị C là đúng quy định pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 33/2023/HC-ST ngày 08 tháng 8 năm 2023, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116, khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều 206, khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; Điều 62, 63, 67, 69, 71 và Điều 114 Luật Đất đai năm 2013; khoản 5 Điều 4; khoản 1 Điều 15; Điều 16 và khoản 1, khoản 3 Điều 18 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Điều 18, 27, 28, 29, 30 và Điều 31 Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại và Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C về việc:

- Hủy Quyết định số 10525/QĐ-UBND ngày 27/12/2021 của UBND thành phố Q về việc thu hồi đất của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C đang sử dụng tại phường T1 để thực hiện dự án: Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (phương án đợt 2).

- Hủy Quyết định số 10765/QĐ-UBND ngày 30/12/2021 của UBND thành phố Q về việc bồi thường, hỗ trợ cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C đang sử dụng thuộc phường T1, thành phố Q để thực hiện dự án: Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi (phương án đợt 2).

- Hủy Quyết định số 2563/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 của Chủ tịch UBND thành phố Q về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C, công dân phường T1, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi để thực hiện dự án: Xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi.

- Hủy Quyết định số 6088/QĐ-UBND ngày 20/10/2022 của Chủ tịch UBND thành phố Q về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C (địa chỉ: Số 22 Đường P, phường T1, thành phố Q).

- Buộc UBND thành phố Q và Chủ tịch UBND thành phố Q tiến hành lại trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ cho ông Nguyễn T, bà Trần Thị C tại thửa số 5, tờ bản đồ địa chính khu đất số 01, phường T1 (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00030QSDĐ/ 288/QĐ-UB, thửa đất số 5, tờ bản đồ địa chính số 13, 19 phường T1 và tờ bản đồ địa chính số 14 phường L1 diện tích 326,3m2) theo đúng quy định pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/8/2023, người khởi kiện ông Nguyễn T, bà Trần Thị C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông, bà.

Tại phiên tòa, Đại diên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính - Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận; Xét thấy:

[1]. Xét kháng cáo của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C; nhận thấy: [1.1]. Về nguồn gốc đất:

- Theo hồ sơ địa chính nguyên thửa đất số số 05, tờ bản đồ địa chính khu đất số 1, phường T1, thành phố Q, loại đất BHK, diện tích 326,3m2 theo bản đồ đo vẽ năm 1993 thuộc tờ bản đồ số 03, thửa đất số 1, loại đất ĐRM, phường T1 có nguồn gốc đất giao theo Nghị định 64/CP của Chính phủ cho hộ ông Lê Trọng C1 và bà Cao Thị L3 được UBND thị xã Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00030 cấp ngày 21/8/1999 gồm 02 thửa đất: Thửa đất số 501, tờ bản đồ số 02, diện tích 487 m2, loại đất ĐRM và thửa đất số 03 tờ bản đồ số 01, diện tích 257 m2, loại đất ĐRM (Bản đồ đo vẽ năm 1993).

- Ngày 31/12/2007, ông Lê Trọng C1 và bà Cao Thị L3 chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 03 tờ bản đồ số 01, diện tích 257 m2, loại đất ĐRM cho ông Nguyễn T và bà Trần Thị C theo hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất được UBND phường T1 chứng thực số 759, quyển số 01/TP/CC-SCT/HĐGD ngày 31/12/2007 và đã được niêm yết theo thông báo 67a/TB-UBND ngày 14/9/2021 của UBND phường T1. Ông Nguyễn T và bà Trần Thị C sử dụng ổn định liên tục từ đó đến nay với mục đích đất nông nghiệp, không tranh chấp, không lấn chiếm và chưa lập thủ tục sang tên.

[1.2]. Về giá đất bồi thường; nhận thấy:

- Theo Quyết định số 11/2020/QĐ-UBND ngày 08/6/2020 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về việc ban hành quy định về Bảng giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi áp dụng cho thời kỳ 5 năm (2020-2024); và theo quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 23 Quyết định số 48/2017/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của UBND tỉnh Quảng Ngãi, Ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi: “Điều 23. Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp:

Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm thực hiện theo Khoản 6 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP; Điều 6 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT và được quy định như sau:

1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại Khoản 6 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm như sau:

a) Đối với đất nông nghiệp: Khu vực 08 phường thuộc thành phố Q, mức hỗ trợ bằng 05 lần; khu vực phường T4, xã N2, N3 và thị trấn thuộc các huyện, mức hỗ trợ bằng 04 lần; các xã còn lại, mức hỗ trợ bằng 03 lần giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất quy định hiện hành của UBND tỉnh đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi đủ điều kiện bồi thường, nhưng diện tích được hỗ trợ không vượt quá hai (02) ha cho một hộ”.

- Diện tích đất 228,7m2 thu hồi của ông Nguyễn T, bà Trần Thị C là loại đất: BHK, nên UBND tỉnh Quảng Ngãi phê duyệt giá đất bồi thường vị trí 1, hệ số điều chỉnh (K: 1,0 lần) là đúng với quy định tại Quyết định số 11/2020/QĐ- UBND ngày 08/6/2020 của UBND tỉnh Quảng Ngãi; đồng thời hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp: 250.000 đồng/m2 là đúng quy định tại điểm a, Khoản 1, Điều 23 Quyết định số 48/2017/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của UBND tỉnh Quảng Ngãi nêu trên; việc ông T, bà C cho rằng UBND thành phố Q sử dụng quy định cũ, không phù hợp theo biến động, diễn biến về đất đai tại thời điểm thu hồi vào năm 2022 là không có cơ sở.

[1.2]. Về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn T, bà Trần Thị C; nhận thấy:

Để thực hiện công tác giải phóng mặt bằng dự án xây dựng trụ sở Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng Ngãi; UBND phường T1 phối hợp với Trung tâm phát triển quỹ đất tỉnh Quảng Ngãi và các đơn vị có liên quan tổ chức mời vận động hộ gia đình, cá nhân nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng nhưng ông Nguyễn T và bà Trần Thị C không thống nhất. Bà Nguyễn Thị K là con đẻ của ông Nguyễn T và bà Trần Thị C đã nhận Quyết định thu hồi đất và Quyết định bồi thường chi tiết, nhưng không thông nhất nhận tiền bồi thường, hỗ trợ.

Ngày 28/3/2022, Ông Nguyễn T cùng một số hộ dân có đất bị thu hồi thuộc dự án Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà Nước Quảng Ngãi có đơn với nội dung: Nhà nước phải trung cầu thẩm định giá cụ thể theo Nghị định 43,44,45 bồi thường sát với giá trị bồi thường, giá thực tế hiện tại. Chưa đồng ý nhận tiền bồi thường và chưa bàn giao mặt bằng nếu chưa được thỏa thuận. Ngày 27/4/2022, UBND thành phố đã có Công văn số 1401/UBND-TCD về việc trả lời đơn cho ông Nguyễn T và một số hộ dân có đất bị thu hồi thuộc dự án Xây dựng Trụ sở Kho bạc Nhà Nước Quảng Ngãi. Ngày 27/5/2022, Chủ tịch UBND thành phố Q ban hành Quyết định số 2563/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn T và bà Trần Thị C.

Như vậy, Chủ tịch UBND thành phố Q ban hành quyết định số 2563/QĐ-UBND là đúng thẩm quyền, nội dung và trình tự, thủ tục pháp luật quy định tại điểm d, Khoản 3 Điều 69, Điều 71 Luật Đất đai năm 2013 và Khoản 2, Điều 11 Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, xét thấy án sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn T và bà Trần Thị C là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Ông T và bà C kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ nào mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án, nên không có sơ sở chấp nhận; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn T và bà Trần Thị C phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính.

QUYẾT ĐỊNH

1. Bác kháng cáo của ông Nguyễn T và bà Trần Thị C; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 33/2023/HC-ST ngày 08/8/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

2. Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn T và bà Trần Thị C phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm; được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006876 ngày 13/9/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi (do Trương Đa Vít nộp thay).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 20/2024/HC-PT

Số hiệu:20/2024/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 23/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về