TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 136/2022/HC-PT NGÀY 25/02/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 282/2021/TLPT-HC ngày 06 tháng 5 năm 2021 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.Do bản án hành chính sơ thẩm số: 01/2021/HC-ST ngày 05 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2606/2021/QĐ-PT ngày 23 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Phạm Thị U, sinh năm 1972 (có mặt) Địa chỉ: ấp X, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn b Địa chỉ trụ sở: T, phường T1, quận T2, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật: Ông Trần T3, sinh năm 1970 (có mặt) Địa chỉ: L, Phường X11, quận T4, Thành phố Hố Chí Minh.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn N, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Trọng N1, chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên Môi trường huyện G, tỉnh Tây Ninh (có mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/Ông Phạm Văn A, sinh năm 1954 (vắng mặt)
2/Bà Trần Thị H2, sinh năm 1956 (vắng mặt) Cùng cư trú tại: Tổ x4, ấp X, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh.
3/Bà Phạm Thị K, sinh năm 1966 (vắng mặt) 4/Ông Hồ Văn H3, sinh năm 1965 (vắng mặt) Cùng cư trú tại: Tổ x4, ấp X, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh.
- Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Phạm Thị U.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05/8/2020 và lời trình bày của người khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án thể hiện:
Cha mẹ bà là ông Phạm Văn K1 (chết năm 2002) và bà Nguyễn Thị N3 (chết năm 1998) có cho bà phần đất có diện tích 636,6 m2, thửa 199, tờ bản đồ số 23 tọa lạc tại ấp X, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Bà sinh sống tại phần đất này với cha mẹ từ năm 1972.
Khi cha mẹ bà còn sống có chừa phần đất bên hông nhà, diện tích 45,3m2 để làm đường đi. Có nhiều hộ dân ở phía sau đi nhờ lối đi này do con đường phía sau bị lầy, khó đi. Khoảng 10 năm trở lại đây, con đường phía sau đã được sửa chữa nên chỉ còn nhà bà Phạm Thị K, ông Phạm Văn A (sang nhượng đất của bà Phạm Thị A1 và sống từ năm 2014-2015) vẫn còn đi trên lối đi này.
Sau khi cha mẹ bà chết, bà kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) diện tích 636,6 m2 vào ngày 06/3/2007, trong đó bao gồm phần đất lối đi 45,3 m2 trên.
Năm 2017, bà có ngăn cản ông Phạm Văn A không cho xe chở vật liệu xây dựng đi ngang qua đất của bà nên hai bên xảy ra tranh chấp. Ông A cho rằng phần đất con đường mòn diện tích 45,3m2 là đất của cha ông A để lại cho ông. Tháng 12/2018 ông A có đơn yêu cầu mở lối đi đối với bà U. Ngày 21/12/2018, UBND xã Hiệp Thạnh hòa giải tranh chấp đất đai nhưng không thành.
Theo quy định tại Điều 203 Luật Đất đai thì việc tranh chấp trên phải được chuyển đến Tòa án giải quyết nhưng ngày 03/9/2019 Chủ tịch UBND huyện G ban hành Quyết định số 3606/QĐ-UBND thu hồi GCNQSDĐ của bà với lý do việc cấp GCNQSDĐ cho bà chưa đúng theo quy định của pháp luật về đất đai.
Ngày 17/9/2019 bà khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định số 3606/QĐ-UBND của Chủ tịch UBND huyện G. Ngày 08/6/2020 Chủ tịch UBND huyện G ra Quyết định số 1716/QĐ-UBND về việc thu hồi Quyết định số 3606/QĐ-UBND trên, lý do ban hành không đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Ngày 10/6/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã ra Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do bà rút đơn khởi kiện. Sau đó, bà tiến hành làm trụ rào đất thì ông A tiếp tục ngăn cản.
Ngày 21/7/2020, UBND huyện G ra Quyết định số 2172/QĐ-UBND có nội dung như Quyết định 3606/QĐ-UBND. Nay bà khởi kiện yêu cầu hủy bỏ Quyết định số 2172/QĐ-UBND vì quyết định này không đúng trình tự thủ tục, thẩm quyền giải quyết, cụ thể theo quy định tại Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 đất đang tranh chấp đã được cấp GCNQSDĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Về nội dung của Quyết định cho rằng diện tích 45,3m2 là đất công nhưng trên các hệ thống bản đồ không thể hiện, người bị kiện không đưa ra được chứng cứ nào khác chứng minh đó là đất công và khi cấp GCNQSDĐ cho bà U vào năm 2007 cũng bao gồm luôn phần đất này, trên trích lục bản đồ không thể hiện con đường này. Mặt khác, UBND huyện G căn cứ vào Quyết định số 91/QĐ-CT ngày 22/10/2003 của Chủ tịch UBND huyện G và Quyết định số 179/QĐ-UBND ngày 299/12/2003 của Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn An để xác định 45,3m2 là lối đi là không có căn cứ. Ngoài ra, UBND huyện G xác định diện tích đất tranh chấp là 45,3m2 nhưng lại thu hồi toàn bộ diện tích đất đã cấp cho bà là không có cơ sở.
Tại văn bản số 2176/UBND-NC ngày 01/9/2020 và 4020/UBND-NC ngày 23/12/2020 của Ủy ban nhân dân huyện G thể hiện:
Năm 2006, bà U đăng ký kê khai quyền sử dụng đất và được cấp GCNQSDĐ vào ngày 06/3/2007. Qua kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ thể hiện phần đất được cấp trên có phần diện tích 45,3m2 thuộc lối đi công cộng.
Theo kết quả kiểm tra cả 03 hệ thống bản đồ (bản đồ địa chính lập theo Chỉ thị 299 của Thủ tướng Chính phủ, bản đồ đo đạc lập năm 2000 và 2005) đều không thể hiện con đường đang tranh chấp là sai sót của cơ quan nhà nước trong quá trình đo đạc lập bản đồ. Bởi lẽ, theo hồ sơ giải quyết khiếu nại trước đây của ông Nguyễn Văn An tại Quyết định số 91/QĐ-CT ngày 22/10/2003 của Chủ tịch UBND huyện G và Quyết định số 179/QĐ-UBND ngày 29/12/2003 của Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh có nội dung “Giao cho UBND xã Hiệp Thạnh quản lý 333,60m2 hướng Tây của phần đất tiếp giáp với đường đất rộng 3,1m”.
Do đó việc thu hồi GCNQSDĐ diện tích 636,6m2 của bà U là đúng theo quy định pháp luật tại Điều 105, điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 và điểm b khoản 56 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 03/01/2017 của Chính Phủ. Đối với phần diện tích còn lại của bà U sau khi bị thu hồi, UBND huyện G sẽ hướng dẫn bà U kê khai đăng ký để cấp GCNQSDĐ theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn A và bà Trần Thị H2 thống nhất trình bày: Lối đi từ nhà bà ra đường là của cha mẹ ông A để lại nhưng gia đình ông A chưa kê khai đăng ký nên đây vẫn là lối đi chung. Gia đình ông A đã sử dụng lối đi này từ năm 1975, đến năm 2018 hai bên mới xảy ra tranh chấp. Ngoài con đường mòn tranh chấp này phía sau còn có một con đường khác nhưng vì không thuận tiện nên gia đình ông bà ít sử dụng mà chỉ sử dụng lối đi mà bà U đang tranh chấp làm lối đi chính. Theo ông bà việc UBND huyện G thu hồi GCNQSDĐ của bà U là đúng vì 45,3m2 là lối đi công cộng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị K và ông Hồ Văn H3 thống nhất với lời trình bày của ông A, bà H2.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 01/2021/HC-ST ngày 05 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định như sau:
Bác đơn khởi kiện của bà Phạm Thị U về yêu cầu hủy Quyết định số 2172/QĐ-UBND ngày 21/7/2020 của Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng khác, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, - Ngày 11/3/2021 người khởi kiện bà Phạm Thị U kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
- Ngày 18/3/2021 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh có quyết định số 01/2021/QĐ-VKS-HC kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm. Nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị U.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử hủy Quyết định số 2172/QĐ - UBND ngày 27/1/2020 của Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh. Người bị kiện xin xét xử vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Trong phần tranh luận:
Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày: Ông T3 giữ nguyên lời trình bày như tại sơ thẩm, ngoài ra có bổ sung một số nội dung sau:
- Bà U đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa bà U và ông Phạm Văn A là của Tòa án, Uỷ ban nhân dân huyện G ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cho bà U là sai thẩm quyền.
- Theo quy định của Luật đất đai và Nghị định hướng dẫn thi hành thì việc thu hồi giấy chứng nhận của bà U phải có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, nhưng Uỷ ban nhân dân huyện G ban hành Quyết định 2172/QĐ-UBND khi chưa có kết luận thanh tra là không đúng.
- Tòa án cấp sơ thẩm lập luận cho rằng 3 hệ thống bản đồ địa chính theo chỉ thị 299, năm 2000 và năm 2005 không thể hiện con đường nằm trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà U là sai sót, đây là nhận định chủ quan vì không thể sai sót trên cả 3 bản đồ địa chính ở 3 thời kỳ khác nhau.
Từ đó, ông T3 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà U, chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện bảo lưu ý kiến trình bày tại cấp sơ thẩm. Việc Uỷ ban nhân dân huyện G ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà U là có căn cứ, đúng quy định pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã tiến hành đúng theo quy định của luật tố tụng hiện hành, không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Xét về nội dung vụ án, bản án sơ thẩm căn cứ vào quyết định giải quyết khiếu nại của Uỷ ban nhân dân huyện G và Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh để xác định phần đất tranh chấp là lối đi công cộng là không có cơ sở, nên nội dung kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà U.
Sau khi nghiên cưu cac tai liêu co trong hồ sơ vu an đươc thâm tra tai phiên toa va căn cư vao kết quả tranh tung tai phiên toa, y kiến phat biêu cua đại diện Viên kiêm sat, NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông bà Phạm Văn A, Trần Thị H2, Phạm Thị K, Hồ Văn H3 đã được Tòa án triệu tập nhưng vắng mặt. Xét, thấy, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện xác nhận Uỷ ban nhân dân huyện G và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện G đã nhận được giấy triệu tập, và xin xét xử vắng mặt theo nội dung văn bản số 3609/UBND-NC ngày 16/11/2020. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã có ý kiến trình bày và có đơn xin xét xử vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án (BL 37-40). Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án.
[2] Ngày 06/3/2007 Uỷ ban nhân dân huyện G cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 636,6m2 (trong đó có 45.3m2 diện tích lối đi phía bên hông nhà) thuộc thửa 199, tờ bản đồ số 23 tọa lạc tại ấp X, xã H, huyện G, tỉnh Tây Ninh. Ngày 21/7/2020 Uỷ ban nhân dân huyện G tỉnh Tây Ninh ban hành Quyết định số 2172/QĐ-UBND thu hồi giấy chứng nhận đã cấp cho bà U với lý do việc cấp giấy chứng quyền sử dụng đất chưa đúng theo quy định của pháp luật đất đai. Bà U cho rằng việc Uỷ ban nhân dân huyện G tỉnh Tây Ninh xác định phần diện tích 45,3m2 là lối đi công cộng nên thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp là gây ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp cho gia đình bà, nên khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định 2172/QĐ-UBND ngày 21/7/2020.
[3] Xét Quyết định 2172/QĐ-UBND ngày 21/7/2020 của Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh:
[3.1] Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền ban hành:
Xuất phát từ tranh chấp đất đai giữa ông A và bà U đối với phần lối đi có diện tích 45,3m2, Uỷ ban nhân dân huyện G cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà U có bao gồm phần lối đi công cộng là không đúng quy định pháp luật nên ban hành quyết định thu hồi. Xét, ông A, bà U phát sinh tranh chấp vào năm 2017, tại thời điểm này bà U đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013 thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai là của Tòa án nhân dân. Do đó, Quyết định 2172/QĐ-UBND có nội dung kết luận: Phần đất tranh chấp có diện tích 45,3m2 là lối đi chung của 02 gia đình ông A và bà U là không đủ căn cứ và không đúng thẩm quyền.
Tại văn bản số 2176/UBND-NC ngày 01/9/2020 và 4020/UBND-NC ngày 23/12/2020 Uỷ ban nhân dân huyện G trình bày việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà U là theo quy định tại Điều 105, điểm d khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013. Tại Khoản 3 Điều 106 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai”. Đối chiếu nội dung quy định trên với tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thì Uỷ ban nhân dân huyện G đã ban hành quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà U mà không căn cứ vào kết luận của cơ quan thanh tra, hoặc văn bản có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai. Do vậy, Quyết định 2172/QĐ-UBND được ban hành không đảm bảo về trình tự, thủ tục.
[3.2] Về nội dung:
- Căn cứ kết quả xác minh các hộ dân đã từng sử dụng lối đi này gồm các ông bà Đặng Thị H4, Phan Văn D thể hiện nguồn gốc con đường này là do ông Phạm Văn K1 chừa làm lối đi. Sau khi ông K1 chết, bà U sử dụng và tiếp tục chừa lại 01 phần để làm lối đi; Biên bản hòa giải ngày 21/12/2018 thể hiện ý kiến của Uỷ ban nhân dân xã H: “Việc hình thành con đường là không ổn định, do có đường đi ở phía sau do đường lầy lội nên các hộ dân đi ngang qua đất. Con đường yêu cầu mở chỉ mang tính cá nhân gia đình của ông A không phải lối đi dành cho tập thể nên không xem xét được. Việc ông A yêu cầu mở đường theo luật định thì 2 bên tự thỏa thuận nhưng phải trả thù lao cho bên chừa đất...”, và ý kiến của ông A: “Nếu bên bà U không nhượng thì đề nghị xã nên tạo điều kiện mở đường thêm cho tôi đi lại thuận lợi nhà tôi quay phía trước rồi làm sao đi phía sau được, vì vậy tôi đề nghị xã xem xét. Hiện giờ tôi cũng không có tiền đâu mà thương lượng với bà U”; Ngoài ra, tài liệu xác minh thể hiện huyện G có 03 hệ thống bản đồ địa chính gồm: Bản đồ thành lập theo Chỉ thị 299, bản đồ địa chính năm 2000 và 2005 đều không thể hiện có con đường trên phần đất bà U. Từ các tài liệu chứng cứ trên thì lời trình bày của bà U về phần lối đi diện tích 45,3m2 là phần đất của gia đình bà là có căn cứ.
- Uỷ ban nhân dân huyện G xác định phần diện tích 45,3m2 là lối đi công cộng. Chứng cứ chứng minh là hồ sơ giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Vă n A2 tại Quyết định số 91/QĐ-CT ngày 22/10/2003 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện G, và Quyết định số 179/QĐ-UBND ngày 29/12/2003 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh có nội dung: “Giao cho Uỷ ban nhân dân xã H quản lý 333,6m2 hướng Tây của phần đất tiếp giáp với đường đất rộng 3,1m”.
Xét, nội dung trong các quyết định trên là giải quyết tranh chấp giữa bà Lâm Thị C2 và ông Đoàn Văn N4 đối với diện tích 333,60m2 tại ấp X, xã H, huyện G. Tứ cận phần đất Tây giáp đường đất 27m, nhưng không nêu cụ thể phần đường đi là thuộc phần đất nào. Vấn đề cần phải làm rõ trong vụ án là phần diện tích 45,3m2 là phần đất của gia đình bà U hay là lối đi công cộng. Các tài liệu chứng cứ mà người bị kiện cung cấp thì không có nội dung để chứng minh phần đất 45,3m2 là đất công. Trong khi đó, lời trình bày của người khởi kiện phù hợp với kết quả xác minh, ý kiến trình bày của các bên đương sự tại biên bản hòa giải. Ông A cho rằng nguồn gốc phần đất là do cha ông để lại, nhưng cũng không có chứng cứ chứng minh. Do vậy, Uỷ ban nhân dân huyện G căn cứ vào nội dung này để làm cơ sở thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà U là không có căn cứ.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá không đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, dẫn đến việc giải quyết vụ án gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh, chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị U.
[5] Về án phí và chi phí thẩm định:
- Bà Phạm Thị U không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, án phí hành chính phúc thẩm.
- Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
- Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh phải chịu 900.000 đồng chi phí thẩm định tại chỗ. Bà Phạm Thị U đã tạm ứng số tiền này, nên Uỷ ban nhân dân huyện G tỉnh Tây Ninh có nghĩa vụ hoàn trả số tiền này cho bà U.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015;
I. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị U; Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-HC ngày 18/3/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh; Sửa bản án hành chính sơ thẩm số 01/2021/HC -ST ngày 05/3/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.
Áp dụng Luật Đất đai năm 2013; Luật tố tụng hành chính năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị U:
Hủy Quyết định số 2172/QĐ-UBND ngày 21/7/2020 của Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh.
2. Án phí hành chính sơ thẩm:
- Bà Phạm Thị U không phải chịu, hoàn trả 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) số tiền tạm ứng án phí bà U đã nộp theo biên lai thu số 0001321 ngày 07/8/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh.
- Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh phải chịu 300.000 đồng.
3. Về chi phí thẩm định: Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh phải chịu 900.000 đồng (Chín trăm nghìn đồng). Bà Phạm Thị U đã nộp tạm ứng số tiền trên, nên Uỷ ban nhân dân huyện G, tỉnh Tây Ninh có nghĩa vụ hoàn trả 900.000 đồng (Chín trăm nghìn đồng) cho bà Phạm Thị U.
II. Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Phạm Thị U không phải chịu, hoàn trả 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà bà U đã nộp theo biên lai thu số 0001582 ngày 12/3/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 136/2022/HC-PT
Số hiệu: | 136/2022/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 25/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về