TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ BỊA-VŨNG TÀU
BẢN ÁN 03/2023/HC-PT NGÀY 20/03/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 15 và 20 tháng 3 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử công khai vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số 13/2022/TLPT-HC ngày 08 tháng 12 năm 2022 về việc “khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXX-HC ngày 03 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:
1.Người khởi kiện:
- Nguyễn Hồng Nguyên A, sinh năm: 1987 - (có mặt).
Địa chỉ: Số 17, đường Trần Bình Trọng, khu phố Thạnh Sơn, TT Phước Bửu, huyện X, tỉnh B.
- Nguyễn Hồng Minh A, sinh năm: 1994 – (có mặt ).
Địa chỉ: Số 17, đường Trần Bình Trọng, khu phố Thạnh Sơn, TT Phước Bửu, huyện X, tỉnh B.
2.Người bị kiện: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đại diện theo pháp luật: Nguyễn Văn Linh – Trưởng phòng (vắng mặt ).
Địa chỉ: Quốc lộ 55, TT Phước Bửu, huyện X, tỉnh B.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Phòng Tài nguyên và môi trường:
Nguyễn Thanh Tâm, sinh năm: 1989 (vắng mặt ).
Địa chỉ: Tổ 6, khu phố Láng Sim, TT Phước Bửu, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3. Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Hoa C, sinh năm: 1959 (có mặt ).
Địa chỉ: Tổ 7, ấp Việt Kiều, xã Phước Tân, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Người đại diện theo ủy quyền bà Trần Thị Hiền.
- Bà Tạ Thụy H, sinh năm: 1959 (có mặt ).
Địa chỉ: Số 17, đường Trần Bình Trọng, khu phố Thạnh Sơn, TT Phước Bửu, huyện X, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1] Theo đơn khởi kiện, bản khai, biên bản đối thoại trong quá trình tố tụng tại tòa án và tại phiên tòa. Người khởi kiện chị Nguyễn Hồng Nguyên A và chị Nguyễn Hồng Minh A trình bày:
Chị Nguyên A và chị Minh A là con ruột của ông Nguyễn Hoa C và bà Tạ Thụy H.
Thửa đất số 81 tờ bản đồ địa chính số 15 TT Phước Bửu là tài sản chung của gia đình chị Nguyên A, chị Minh A. Năm 2003 thửa đất này được UBND huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp Giấy chứng nhận QSD đất số V 119327 cho hộ ông Nguyễn Hoa C. Năm 2013 Giấy chứng nhận QSD đất được UBND huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu điều chỉnh thông tin chủ sử dụng đất ở trang 4 từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H. Việc điều chỉnh này chị Nguyên A và chị Minh A không biết, cũng không ký vào văn bản để đề nghị điều chỉnh.
Việc điều chỉnh từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H mà không có ý kiến của các chị là không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chị Nguyên A và chị Minh A. Vì đây là tài sản chung của cả gia đình, chị Nguyên A và chị Minh A là thành viên của hộ gia đình.
Vì vậy, chị Nguyên A và chị Minh A yêu cầu hủy nội dung điều chỉnh từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H tại trang 4 của Giấy chứng nhận QSD đất số V 119327 được UBND huyện X cấp ngày 22/01/2003 cho hộ ông Nguyễn Hoa C. Việc điều chỉnh tên người sử dụng trên Giấy chứng nhận QSD đất được thực hiện năm 2013 nhưng đến năm 2020, khi ông C làm đơn ly hôn với bà H thì chị Nguyên A và chị Minh A mới biết nên các chị mới đi khởi kiện.
[2] Theo văn bản số: 75/PTNMT ngày 22/01/2022, Người bị kiện phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X có ý kiến:
Ngày 22/01/2003 UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho hộ ông Nguyễn Hoa C đối với diện tích 1.817,7m2 đất thuộc thửa đất số 81, tờ bản đồ số 15 TT Phước Bửu.
Ngày 15/3/2013, Phòng Tài nguyên và Môi trường xác nhận nội dung tại trang 4 Giấy chứng nhận QSD đất với nội dung: Được điều chỉnh thông tin cho chủ sử dụng đất tại trang 2 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 119327 cấp ngày 22/01/2003 từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C và bà Tạ Thụy H.
Hiện nay, Phòng Tài nguyên và Môi trường chưa tìm thấy hồ sơ lưu đối với việc điều chỉnh thông tin cho chủ sử dụng đất tại trang 2 Giấy chứng nhận QSD đất số V 119327 cấp ngày 22/01/2003 từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C và bà Tạ Thụy H.
Tuy nhiên, khi thực hiện việc điều chỉnh thông tin cần phải xác minh và làm rõ quyền sử dụng đất nêu trên là tài sản của vợ, chồng hay là tài sản của các thành viên trong hộ gia đình ông Nguyễn Hoa C tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận, nhằm đảm bảo tính pháp lý và quyền lợi của các bên.
Theo biên bản đối thoại trong quá trình tố tụng tại tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Phòng Tài nguyên và môi trường ông Nguyễn Thanh Tâm trình bày: Thửa đất số 81 tờ bản đồ địa chính số 15, thị trấn Phước Bửu được cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho hộ ông Nguyễn Hoa C lần đầu vào năm 2003. Đến năm 2013, được đính chính tên người sử dụng đất từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H.
Thẩm quyền chỉnh lý thông tin người sử dụng đất từ hộ gia đình sang tên cá nhân thuộc thẩm quyền của Phòng Tài nguyên và Môi trường, được quy định tại khoản 1 Điều 42 Nghị định số 181/2004/NĐCP ngày 29/10/2004 của chính phủ về thi hành Luật đất đai. Việc đính chính này phải có đơn yêu cầu của người sử dụng đất. Đơn chỉ cần chủ hộ làm đơn và ký tên là tiến hành làm thủ tục đính chính.
Trường hợp của hộ ông Nguyễn Hoa C có đơn yêu cầu đính chính của ông Nguyễn Hoa C thì mới có cơ sở để Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X tiến hành thủ tục đính chính theo quy định.
Hiện nay tòan bộ hồ xin đính chính tên người sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Hoa C do chuyển nơi làm việc nên đã bị thất lạc không tìm thấy.
Ông Tâm người bảo vệ quyền lợi của Phòng TN&MT huyện X đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Hồng Nguyên A và chị Nguyễn Hồng Minh A, giữ nguyên phần đính chính thông tin chủ sử dụng đất ở trang 4 từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H.
[3]Theo bản khai, biên bản đối thoại trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
[3.1] Ông Nguyễn Hoa C trình bày: Thửa đất số 81 tờ bản đồ địa chính số 15 TT Phước Bửu là tài sản do ông C, bà H mua vào năm 1987. Năm 2003 được UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận QSD đất, nhưng ông C không nhớ cấp cho hộ hay cấp cho cá nhân. Sau khi được Giấy chứng nhận QSD đất lần thứ nhất thì ông C xin giấy phép để xây dựng nhà. Khi xin Giấy phép xây nhà thì do trong Giấy chứng nhận QSD đất cấp lần thứ nhất diện tích đất thổ cư chỉ có 100m2 đất thổ cư nên ông C được hướng dẫn làm thủ tục xin cấp lại Giấy chứng nhận QSD đất với diện tích đất thổ cư là 300m2. Sau khi làm thủ tục xong, đến năm 2003 ông C được cấp Giấy chứng nhận QSD đất số V 119327 với tên người sử dụng đất là hộ Nguyễn Hoa C.
Đến năm 2013 thì gia đình ông C làm thủ tục xin điều chỉnh tên người sử dụng đất từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H. Thủ tục xin điều chỉnh này tất cả các thành viên trong gia đình đều ký tên. Đến ngày 15/5/2013 thì được Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu điều chỉnh từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H.
Các hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận QSD đất, đơn đề nghị điều chỉnh tên người sử dụng đất ông C đã liên hệ với các cơ quan chức năng để sao lục hồ sơ nhưng được trả lời đã bị thất lạc nên không sao lục được. Nay các con ông khởi kiện yêu cầu hủy việc đính chính tên hộ ông Nguyễn Hoa C thành tên ông Nguyễn Hoa C và bà Tạ Tụy H, ông C không đồng ý bởi vì tài sản này là của riêng vợ chồng ông, các con Nguyễn Hồng Nguyên A và Nguyễn Hồng Minh A không có công sức tạo dựng.
[3.2] Bà Tạ Thụy H trình bày: Thửa đất số 81 tờ bản đồ địa chính số 15 TT Phước Bửu là tài sản của gia đình bà H. Năm 2003 được UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận QSD đất số V 119327 với tên người sử dụng đất là hộ Nguyễn Hoa C.
Năm 2013, Giấy chứng nhận QSD đất được UBND huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu điều chỉnh thông tin chủ sử dụng đất ở trang 4 từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H. Việc điều chỉnh này bà H không biết, cũng không ký vào văn bản để đề nghị điều chỉnh.
Bà H đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Hồng Nguyên A, và chị Nguyễn Hồng Minh A. Đề nghị hủy nội dung điều điều chỉnh từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H tại trang 4 của Giấy chứng nhận QSD đất số V 119327 được UBND huyện X cấp ngày 22/01/2003 cho hộ ông Nguyện Hoa C.
[4] Tại bản án hành chính sơ thẩm số 02/2022 ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện X Căn cứ Khoản 2 Điều 57 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai.
Điều 30, Khoản 1 Điều 31, Điều 115, Khoản 2 Điều 116; Điều 158; Điểm c Khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng Hành chính;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Hồng Nguyên A, chị Nguyễn Hồng Minh A.
Hủy nội dung chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H tại trang 4 của Giấy chứng nhận QSD đất số V 119327 được UBND huyện X cấp ngày 22/01/2003 cho hộ ông Nguyện Hoa C.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/10/2022 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hoa C có đơn kháng cáo đề nghị Tòa phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyên A, và chị Minh A bởi các lý do:
Thứ nhất: Cấp sơ thẩm cho rằng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X không xuất trình được hồ sơ làm căn cứ cho việc chỉnh lý thông tin từ hộ gia đình thành cá nhân, nên việc chỉnh lý không đúng trình tự, thủ tục quy định, không có căn cứ nên không hợp pháp. Nhận định này mang tính chủ quan, bởi không có căn cứ mà tại sao Tòa án lại cho rằng Phòng Tài nguyên và Môi trường thực hiện không đúng trình tự, thủ tục theo quy định.
Thứ hai, chị Nguyên A và chị Minh A cho rằng không ký vào văn bản đề nghị điều chỉnh và không hề biết về việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình được chỉnh lý nhưng không có căn cứ chứng minh.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Nguyễn Hoa C vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị sửa bản án sơ thẩm, theo hướng bác đơn khởi kiện của chị Nguyên Anh và chị Minh A.
- Người khởi kiện chị Nguyên A, chị Minh A vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thụy H, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B phát biểu ý kiến:
[5.1]Về trình tự thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện đúng theo quy định của Luật Tố tụng Hành chính. Thụ lý vụ án: Việc chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất ở trang 4 từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H, theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 Nghị định số: 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ là thẩm quyền của Phòng tài nguyên và môi trường. Theo Khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31 Luật Tố tụng hành chính thì đây là đối tượng khởi kiện và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Đơn kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được thực hiện trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
- Thời hạn đưa vụ án ra xét xử và mở phiên tòa đúng quy định.
[5.2]Về nội dung: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 57 Nghị định số:
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ thì Việc chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất đối với cá nhân, hộ gia đình thuộc thẩm quyền của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X. Tại công văn 75/PTNMT ngày 22/01/2022, phòng Tài nguyên và môi trường huyện X xác định việc chỉnh lý thông tin về chủ sử dụng đất phải có đơn yêu cầu của người đề nghị chỉnh lý thông tin với tất cả các thành viên cùng ký, phải tiến hành xác minh và làm rõ quyền sử dụng đất là tài sản của vợ, chồng hay là tài sản của các thành viên trong hộ gia đình. Tuy nhiên, tại cấp sơ thẩm phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X không xuất trình được hồ sơ để làm căn cứ cho việc chỉnh lý này. Bà H, chị Nguyên A, chị Minh A đều khẳng định không biết, không ký vào đơn đề nghị chỉnh lý thông tin. Theo thông tin do Văn phòng đăng ký đất đai huyện X cung cấp thì toàn bộ hồ sơ về việc cấp Giấy chứng nhận QSD đất không tìm thấy tại Văn phòng đăng ký đất đai huyện X (công văn 75/PTNMT ngày 22/01/2022). Như vậy, việc chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất ở trang 4 từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X không thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định, không có căn cứ nên không hợp pháp. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyên A, chị Minh A hủy nội dung chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất ở trang 4 từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H tại trang 4 của Giấy chứng nhận QSD đất số V 119327 được UBND huyện X cấp ngày 22/01/2003 cho hộ ông Nguyện Hoa C là có căn cứ.
p dụng khoản 1, Điều 241 Luật Tố tụng hành chính: Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Hoa C; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số:
02/2022/QĐST - HC ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện X.
- Án phí hành chính phúc thẩm: ông Nguyễn Hoa C phải chịu;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các qui định của pháp luật, Hội đồng xét xử thấy:
[1] Về tố tụng:
[1.1]. Xét đối tượng bị khởi kiện, thẩm quyền thụ lý và thời hiệu giải quyết vụ án hành chính: Năm 2003 UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Hoa C với diện tích là 1.817,7m2 đất thuộc thửa 81 tờ bản đồ số 15 thi trấn Phước Bửu. Ngày 15/5/2013, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X điều chỉnh thông tin chủ sử dụng đất từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C và bà Tạ Thụy H. Đến năm 2020 chị Nguyên A và chị Minh A mới biết việc điều chỉnh này, việc điều chỉnh này của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X làm ảnh hưởng đến quyền lợi của chị Nguyên A, và chị Minh A, các chị không đồng ý nên làm đơn khởi kiện. Hội đồng xét xử thấy rằng cấp sơ thẩm xác định đối tượng bị kiện là hành vi hành chính là không đúng quy định của pháp luật. Cấp phúc thẩm xác định lại đối tượng bị kiện là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai. Về thời hiệu khởi kiện, do người khởi kiện đến năm 2020 mới biết việc điều chỉnh tên chủ sử dụng đất trên giấy đã câp cho hộ ông C, nên thời hiệu vẫn còn.
[1.2] Xét sự vắng mặt của người bị kiện: Tòa án đã triệu tập hợp lệ đại diện Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X. Tuy nhiên, Phòng Tài nguyên và Môi trường vắng mặt, cử Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham dự phiên tòa nhưng vắng mặt lần thứ hai. Căn cứ Khoản 1 Điều 157 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử chấp nhận và xét xử vắng mặt là phù hợp.
[1.3] Về kháng cáo; Ông Nguyễn Hoa C kháng cáo trong thời hạn, hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý của hành vi hành chính bị kiện. [2.1] Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền ban hành quyết định hành chính:
Năm 2013 ông Nguyễn Hoa C xin điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ chủ sở hữu là hộ gia đình ông C sang cá nhân ông C, bà H. Đây là trường hợp phát hiện sai nội dung ghi trên giấy chứng nhận đã cấp Căn cứ khoản 1 Điều 42 Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật đất đai của Chính phủ. Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X có trách nhiệm đính chính nội dung ghi trên giấy chứng nhận đã cấp là đúng thẩm quyền. Cấp sơ thẩm căn cứ khoản 2 Điều 57 Nghị định 181/2004/NĐ-CP để xác định thẩm quyền chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất là không đúng quy định của pháp luật. Khoản 2 Điều 57 Nghị định 181/2004/NĐ-CP là quy định về chỉnh lý biến động về sử dụng đất.
[2.2] Về nội dung:
Nguồn gốc thửa đất: Năm 1987, vợ chồng ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H nhận chuyển nhượng căn nhà và khu đất, sau đó vợ chồng ông khai phá thêm xung quanh. Năm 2003 UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận QSD đất số V119327 cho hộ ông Nguyễn Hoa C, năm 2013, ông C yêu cầu Phòng Tài nguyên và Môi trường điều chỉnh từ hộ ông Nguyễn Hoa C sang cá nhân ông Nguyễn Hoa C và bà Tạ Thụy H. Tại thời điểm nhận chuyển nhượng, khai phá và được cấp Giấy các con ông C bà H còn nhỏ (chị Nguyên A sinh năm 1987, chị Minh A sinh năm 1994).Toàn bộ thửa đất này là tài sản chung của vợ chồng ông C, bà H không phải là tài sản chung của cả hộ gia đình. Căn cứ khoản 3 Điều 43 Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ. Trường hợp này lẽ ra khi cấp Giấy chứngnhận QSD đất phải ghi tên người sử dụng đất là ông Nguyễn Hoa C và bà Tạ Thúy H. Tuy nhiên, khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2003 cho vợ chồng ông C UBND huyện X ghi hộ ông Nguyễn Hoa C là sai nội dung tên người sử dụng đất trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2013 khi phát hiện, ông C xin điều chỉnh tên người sử dụng đất trong Giấy chứng nhận đã cấp năm 2003 từ hộ ông Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C và bà Tạ Thụy H và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X điều chỉnh theo yêu cầu của ông C là đúng quy định của pháp luật. Việc điều chỉnh này pháp luật không quy định tất cả các thành viên trong gia đình ông C phải ký. Hiện nay hồ sơ xin điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông C, Phòng Tài nguyên và Môi trường không tìm thấy. Do vậy, không có căn cứ cho rằng các thành viên trong gia đình ông C có ký hay không. Tuy nhiên, ông C thừa nhận có làm đơn yêu cầu đính chính, nên việc không tìm thấy hồ sơ xin điều chỉnh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông C không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Bản án sơ thẩm cho rằng việc chỉnh lý thông tin trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V119327 đã cấp năm 2003 cho hộ ông Nguyễn Hoa C của Phòng Tài nguyên và Môi trường là không thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định, không có căn cứ pháp luật, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyên A và chị Minh A và hủy nội dung chỉnh lý thông tin tên người sử dụng đất trong Giấy chứng nhận đã cấp năm 2003 cho hộ ông Nguyễn Hoa C là không đúng quy định của pháp luật.
Ý kiến của người khởi kiện, chị Nguyên A, chị Minh A, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thúy H và đại diện Viện kiểm sát cho rằng việc chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất ở trang 4 từ hộ Nguyễn Hoa C thành ông Nguyễn Hoa C, bà Tạ Thụy H của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X không thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định, không có căn cứ nên không hợp pháp và yêu cầu cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm là không đúng quy định của pháp luật.
Kháng cáo của ông Nguyễn Hoa C là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.
[3] Việc, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X làm mất hồ sơ xin đính chính tên người sử dụng đất của ông Nguyễn Hoa C. Là hành vi vi phạm pháp luật về đất đai khi thi hành công vụ trong lĩnh vực đất đai. Căn cứ điểm h khoản 7 Điều 97 Nghị định 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, hành vi này phải được xử lý theo quy định tại Điều 96, 98 Nghị định 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
[4]. Án phí hành chính: Do phải sửa bản án sơ thẩm nên án phí hành chính sơ thẩm phải tính lại, án phí hành chính phúc thẩm các đương sự không phải chịu.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 241 Luật tố tụng hành chính:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hoa C, sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2022/HC-ST ngày 27/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện X như sau:
- Căn cứ Khoản 1 Điều 42; Khoản 3 Điều 43 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ. Khoản 1 Điều 157; điểm a Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban TH vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Hồng Nguyên A và chị Nguyễn Hồng Minh A về việc yêu cầu Tòa án hủy nội dung chỉnh lý thông tin chủ sử dụng đất tại trang 4 ngày 15/5/2013 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V119327 do UBND huyện X cấp ngày 22/01/2003 cho hộ ông Nguyễn Hoa C.
2. Về án phí hành chính:
- Án phí hành chính sơ thẩm: Chị Nguyễn Hồng Nguyên A và Nguyễn Hồng Minh A phải chịu. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí số 0008777 ngày 08/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X. Chị Nguyễn Hồng Nguyên A và Nguyễn Hồng Minh A đã nộp đủ.
-Án phí hành chính phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu, hoàn lại 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm unwgs án phí phúc thẩm số 0011340 ngày10/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X cho ông Nguyễn Hoa C.
3. Kiến nghị UBND huyện X xử lý vi phạm pháp luật về đất đai của của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện X, do có hành vi làm mất hồ sơ đính chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V119327 ngày 15/3/2013 của ông Nguyễn Hoa C.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (ngày 20/3/2023).
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 03/2023/HC-PT
Số hiệu: | 03/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 20/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về