Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 03/2021/HC-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 03/2021/HC-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số:31/2020/TLST – HC, ngày 27/02/2020 về yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 02/2021/QĐXXST- HC ngày 23 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Vương Thừa T, sinh năm 1953.

Địa chỉ: Khối 3, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An; (Có mặt) Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Huy H, sinh năm 1958, Địa chỉ: Khối 1, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Theo giấy ủy quyền ngày 26/03/2020 (Có mặt)

- Người bị kiện:

+ Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An, Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Nghĩa H, chức vụ Phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An, theo quyết định ủy quyền số: 936/QĐ- UBND ngày 27/3/2020. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

+ Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Sỹ C, chức vụ phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V, theo Quyết định ủy quyền số: 1450/QĐ-UBND ngày 25/3/2020. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An, Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Sỹ C, chức vụ Phó chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V, theo Quyết định ủy quyền số: 2273/QĐ-UBND ngày 13/5/2020. (Có mặt).

2. Ủy ban nhân dân phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An;

Đại diện theo ủy quyền ông Ngô Xuân N, chức vụ Phó chủ tịch ủy ban nhân dân phường H;

Địa chỉ: Số 70, HT, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

3. Công ty cổ phần xuất nhập khẩu N;

Địa chỉ: số 15, đường QT, thành phố V, tỉnh Nghệ An;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang L, chức vụ Tổng Giám đốc (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xử vắng mặt)

4. Bà Đinh Thị Th, sinh năm 1962; địa chỉ: Khối 3, phường H, thành phố V, Nghệ An; (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

5. Anh Vương Gia T, sinh năm 1992; địa chỉ: Khối 3, phường H, thành phố V, Nghệ An;(Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

6. Chị Vương DT, sinh năm 1993; địa chỉ: Khối 3, phường H, thành phố V, Nghệ An; (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 25/3/2019, đơn khởi kiện bổ sung và tại bản tự khai, Ông Vương Thừa T yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án Hành chính với nội dung: hủy bỏ một phần Quyết định số: 575/QĐ-UBND, ngày 27 tháng 02 năm 2019 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh N về việc giải quyết khiếu nại của 09 hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA; hủy bỏ Quyết định số: 2958/QĐ-UBND ngày 23/5/2018, của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T; hủy bỏ Quyết định số: 4697/QĐ-UBND, ngày 27/7/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố V, về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân.

Lý do khởi kiện: Nguồn gốc thửa đất số 17 tờ bản đồ số 7 thuộc khối 3, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An là thửa đất được nhà nước giao cho Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA sử dụng từ trước năm 1976. Công ty đã sử dụng vào mục đích kinh doanh và làm nhà ở cho công nhân. Công ty đã xây dựng 9 gian nhà từ trước năm 1978, phân cho các thế hệ công nhân ở, hiện nay 9 gian nhà đang có 9 hộ gia đình đang ở trong đó có gia đình ông T. Tháng 12/2006, chín hộ gia đình được mua thanh lý nhà ở của công ty trong đó có hộ gia đình ông Vương Thừa T. Năm 2007, thực hiện chủ trương của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về đề án giải quyết nhà ở tập thể cũ trên địa bàn thành phố V, được ban hành theo Quyết định số: 109/QĐ-UBND, ngày 21/9/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An. Ngày 27/7/2017, Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số: 4697/QĐ-UBND về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Vương Thừa T đối với lô đất số 02, diện tích 46,25 m2, với mức thu tiền sử dụng đất là 100% theo mức giá do Ủy ban nhân dân tỉnh quy định tại Quyết định số: 739/QĐ-UBND.ĐC, ngày 16/10/2015. Ông T không đồng ý với Quyết định số: 4697/QĐ-UBND, về việc giao đất có thu tiền, cho nên ông T đã khiếu nại lên Ủy ban nhân dân thành phố V. Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V đã giải quyết khiếu nại của ông bằng Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23 tháng 5 năm 2018, không đồng tình với việc giải quyết khiếu nại, ông T tiếp tục khiếu nại lên lên Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An. Ngày 27 tháng 02 năm 2019, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số:

575/QĐ-UBND, về việc giải quyết khiếu nại của 09 hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA trong đó có hộ gia đình ông T.

Ban đầu ông Vương Thừa T yêu cầu khi Nhà nước thu hồi của ông 46,25m2 đất thuộc thửa đất số 17 tờ bản đồ số 7, tại khối 3 phường H, thành phố V phải bồi thường cho ông 100% giá trị tiền sử dụng đất, với số tiền là:

268.250.000 đồng (Tương ứng với việc sau khi thu hồi đã giao cho ông T diện tích 46,25m2 phải nộp tiền sử dụng đất). Tuy nhiên, do ông T xác định, ông không có giấy tờ như quy định tại Điều 100 Luật đất đai 2013, cho nên ông T thay đổi yêu cầu được bồi thường 100% giá trị tiền sử dụng đất bằng yêu cầu bồi thường 50% giá trị tiền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất bằng số tiền:

134.125.000 đồng.

Theo ông T và người đại diện ông Trần Huy H thì Quyết định số:

109/2007, ngày 21/9/2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An giao đã giao cho Ủy ban nhân dân thành phố V lập phương án bồi thường khi nhà nước thu hồi đất (Được công nhận QSD đất); Nếu phù hợp quy hoạch thì phê duyệt quy hoạch và bố trí giao đất tái định cư (Nhà nước giao đất), như vậy khi thu hồi phải bồi thường và khi giao đất phải nộp tiền sử dụng đất. Ông T được giao đất phải nộp tiền, nhưng khi thu hồi đất không được bồi thường là không đúng. Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 20 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ thì: “Hộ gia đình cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, các công trình xây dựng khác từ trước ngày 01/7/2004, được ủy ban nhân dân phường xác nhận không có tranh chấp sử dụng đất… đất được cấp giấy chứng nhận hay đất bị thu hồi thì nhà nước công nhận QSD đất” như vậy hộ gia đình ông T phải được xác nhận và cấp giấy chứng nhận QSD đất, có nghĩa là ông T không phải nộp tiền sử dụng đất khi giao đất tái định cư. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất và khoản 2, 3 Điều 21 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai thì hộ gia đình ông T mua căn nhà tập thể gắn liền với đất của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA vào năm 2006 nhưng nguồn gốc là đất sử dụng trước ngày 15/10/1993, và hiện trạng sử dụng là đất ở (vì thửa đất này có nhà ở). Tuy ông T mua hóa giá nhà tập thể sau thời điểm 01/7/2004, nhưng ông đã sử dụng căn nhà và thửa đất này ổn định từ trước năm 1996, điều này thể hiện qua các giấy tờ sau:

- Giấy xin phòng ở năm 1997, có xác nhận của Phòng hành chính quản trị Công ty xuất nhập khẩu NA;

- Hộ khẩu đăng ký chuyển đến năm 2008;

- Bản án của Tòa án năm 1998 xác định nơi ở của ông là khu tập thể Công ty Ngoại thương V.

- Học bạ của con… Như vậy khi nhà nước thu hồi đất phải bồi thường tiền sử dụng đất. Gia đình ông sử dụng ổn định một gian nhà diện tích 46,25m2 của dãy nhà có 09 gian có từ những năm 1978, khi Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ phải nộp 50% tiền sử dụng đất, đồng nghĩa với việc khi nhà nước thu hồi được bồi thường 50% tiền sử dụng đất. Do chi phí xây dựng hạ tầng sau khi quy hoạch mới do nhân dân đóng góp 100%, nên tiền sử dụng đất nơi đi bằng tiền sử dụng đất nơi đến. Như vậy khi nhà nước thu hồi đất ông T đang sử dụng lô số 2, thửa đất số 17 tờ bản đồ số 7, tại khối 3 phường H ông chỉ phải nộp 50% tiền sử dụng đất cụ thể là: 46,25 m2 x 5.800.000 đồng x 50% = 134.125.000 đồng. Ủy ban nhân dân thành phố V đã thu của ông 100% tiền sử dụng đất với số tiền 268.250.000 đồng là trái với quy định của pháp luật.

Ông Vương Thừa T và người đại diện theo ủy quyền không đồng ý với các quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V và Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xem xét.

Người đại diện Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An trình bày:

Sau khi có khiếu nại của ông Vương Thừa T với Quyết định số: 2958/QĐ- UBND, ngày 23/5/2018, của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông T, Chủ tịch ủy ban nhân tỉnh Nghệ An đã xem xét quyết định nói trên, tổ chức xác minh, kiểm tra hiện trạng sử dụng đất; kiểm tra hồ sơ lưu trữ tại Ủy ban nhân dân thành phố V, làm việc với các bên liên quan; Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã chủ trì cùng các sở, ban ngành liên quan tổ chức đối thoại với 9 hộ gia đình có khiếu nại, xác định:

Việc Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của các hộ dân tại khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA là đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Việc 09 hộ gia đình trong đó có hộ ông Vương Thừa T khiếu nại Ủy ban nhân dân thành phố V giao đất ở có thu 100% tiền sử dụng đất đối với các hộ không đúng với quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 100, Luật đất đai năm 2013 là khiếu nại sai, bởi vì:

Nguồn gốc khu đất được nhà nước giao cho Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA sử dụng trước khi có Luật Đất đai. Năm 2004 thực hiện việc cổ phần hóa doanh nghiệp, công ty không đưa khu đất này vào xác định giá trị quyền sử dụng đất để lập phương án cổ phần hóa, còn tài sản trên đất là tài sản của công ty được đánh giá đã hết khấu hao chờ thanh lý. Khi cổ phần hóa doanh nghiệp không bàn giao khu đất này cho địa phương quản lý theo khoản 3 Điều 9 Nghị định số: 64/NĐ-CP, ngày 19/6/2002, của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tháng 12/2006, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA bán thanh lý, hóa giá tài sản trên đất theo chủ trương của Hội đồng quản trị công ty.

Thực hiện đề án nhà ở tập thể cũ trên địa bàn thành phố V ban hành kèm theo Quyết định số: 109/QĐ – UBND, ngày 21/9/2007, UBND phường H đã chủ trì, phối hợp với các hộ gia đình sinh sống tại khu tập thể Công ty triển khai các bước để giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ tại khu tập thể này.

Ngày 06/6/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã có Quyết định số:

472/QĐ-UBND, thu hồi 918,7 m2 đất sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA, giao cho Ủy ban nhân dân thành phố V đưa vào quản lý theo quy hoạch và pháp luật. Vị trí, ranh giới, diện tích đất thu hồi chính là đất của khu tập thể Công ty.

Ngày 27/7/2017, Ủy ban nhân dân thành phố V đã ban hành 09 Quyết định giao đất có thu tiền sử dụng đất cho 09 hộ gia đình cá nhân nêu trên (trong đó có hộ ông Vương Thừa T) với mức thu tiền sử dụng đất là 100% mức giá cụ thể do Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An quyết định.

Việc hộ gia đình ông Vương Thừa T cung cấp các loại hồ sơ giấy tờ để xác định đã sử dụng ổn định thửa đất từ trước ngày 01/7/2004 và căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 20 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP của chính phủ; điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất và khoản 2, 3 Điều 21 Nghị định số: 43/2014/NĐ- CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai để yêu cầu được bồi thường 50% tiền sử dụng đất là không có cơ sở. Căn cứ Điều 9 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì việc gia đình ông Vương Thừa T sử dụng đất tại khu tập thể Công ty thuộc khối 3, phường H, thành phố V phải nộp 100% tiền sử dụng đất theo giá đất tại thời điểm có quyết định công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, việc Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An ban hành Quyết định số: 575/QĐ-UBND, ngày 27/2/2019, về việc giải quyết khiếu nại đối với 09 hộ gia đình thuộc khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA trong đó có hộ ông Vương Thừa T là đúng quy định của pháp luật. Việc Ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số: 4697/QĐ-UBND, ngày 27/7/2017 về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất tại khu tập thể Công ty, trong đó xác định mức thu 100% tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình ông Vương Thừa T là đúng quy định của pháp luật, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An không chấp nhận khiếu nại của ông Vương Thừa T.

Đại diện Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V trình bày:

Việc Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số:

2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018 là đúng quy định của pháp luật, cụ thể:

- Về trình tự giải quyết khiếu nại của công dân: Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V đã được thực hiện theo đúng quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 và Thông tư số: 07/2013/TT-TTCP, ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ.

- Về nội dung giải quyết khiếu nại: Tại Quyết định đã thể hiện ông Vương Thừa T khiếu nại Quyết định số: 4697/QĐ-UBND, ngày 27/7/2017 của Ủy ban nhân dân Thành phố “Về việc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân”, trong đó giao cho ông Vương Thừa T lô đất ở số 02, diện tích 46,25m2 tại khối 3, phường H có xác định mức thu 100% tiền sử dụng đất là khiếu nại sai.

Ban đầu ông T đề nghị xác định giấy tờ mua thanh lý tài sản của ông của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA là giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 100 của Luật Đất đai 2013 để không phải nộp tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất ở cho gia đình ông là không có cơ sở bởi vì: Căn cứ hồ sơ thanh lý hóa giá và khẳng định của Công ty thể hiện: Ông Vương Thừa T là người mua thanh lý tài sản trên đất của Công ty vào năm 2006 chứ không phải là người mua đất của công ty.

Quá trình giải quyết vụ án ông T thay đổi yêu cầu và căn cứ pháp luật, theo đó ông T căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 20, Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ để được công nhận quyền sử dụng đất với diện tích đang sử dụng. Căn cứ xác định thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định của ông T là các giấy tờ quy định tại khoản 2, 3 Điều 21 Nghị Định số: 43/2014/NĐ- CP, cụ thể giấy xin phòng ở năm 1997, hộ khẩu chuyển đến năm 2008, nơi học của con… Việc tính thu tiền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính Phủ, ông T đề nghị áp dụng điều khoản trên là không có cơ sở. Điều 20, 21 của Nghị định số:

43/2014/NĐ-CP và khoản 1 Điều 7 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, của Chính phủ chỉ áp dụng với trường hợp công nhận quyền sử dụng đất thông qua việc cấp giấy chứng nhận QSD đất. Ông T được mua hóa giá tài sản trên đất năm 2006, không bao gồm quyền sử dụng đất nên không được xác định việc sử dụng đất theo quy định để công nhận quyền sử dụng đất.

Mặt khác, theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 21 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì: “Giấy tờ đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở”, việc nhà nước giao đất cho Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA thể hiện qua hồ sơ địa chính các thời kỳ thể hiện thửa đất số 17, tờ bản đồ số 7, diện tích 918,7m2, loại đất là đất chuyên dùng (đất xây dựng) không phải đất ở. Đến năm 2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã có Quyết định số:

472/QĐ-UBND, ngày 06/6/2016 thu hồi 918,7m2 đất sản xuất kinh doanh (SKC) của công ty giao cho Ủy ban nhân dân Thành phố V đưa vào quản lý theo quy hoạch và pháp luật. Thửa đất này có nguồn gốc là đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất cho công ty và đến năm 2016, công ty đã tự nguyện trả lại, do đó, Ủy ban nhân Thành phố không xem xét việc bồi thường về đất.

Việc trước đây Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA phân nhà tập thể cho cán bộ công nhân viên sử dụng, về chính sách tại thời điểm đó là cho cán bộ công nhân viên của công ty mượn nhà tập thể để cán bộ yên tâm công tác còn nhà và đất vẫn thuộc quyền quản lý, sử dụng của công ty.

Với mục tiêu nhằm cải thiện, đảm bảo nơi ở, sinh hoạt cho người dân hiện đang sống tại các khu tập thể đồng thời góp phần chỉnh trang đô thị, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã phê duyệt Đề án giải quyết nhà ở tập thể cũ trên địa bàn thành phố V. Thực hiện Luật Đất đai năm 2013, kết hợp với mục tiêu của Đề án giải quyết nhà tập thể, Ủy ban nhân dân Thành phố V đã giải quyết các khu tập thể theo hướng quy hoạch chia lô đất ở; đồng thời xét giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân sinh sống trong khu tập thể để đảm bảo quyền lợi cho người dân.

Đối chiếu chính sách về bồi thường, vận dụng khoản 2, Điều 79 của Luật Đất đai năm 2013 và khoản 4, Điều 6, Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ, Ủy ban nhân dân Thành phố V giao cho hộ ông (bà) Vương Thừa T - Đinh Thị Th 01 lô đất ở tại khu quy hoạch chia lô đất ở khu tập thể công ty có thu tiền sử dụng đất, giá tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An quy định.

Ngoài ra, để vận dụng quyền lợi tối đa có thể, giả sử được cấp Giấy chứng nhận QSD đất thì ông T cũng phải nộp 100% tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 9, Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

Do đó, việc Ủy ban nhân dân thành phố V giao đất ở cho ông Vương Thừa T trong đó xác định mức thu 100% tiền sử dụng đất theo giá đất ở được Ủy ban nhân dân tỉnh quy định tại Quyết định số: 739/QĐ-UBND.ĐC, ngày 16/10/2015 là đúng quy định của pháp luật.

Ủy ban nhân dân thành phố V không chấp nhận yêu cầu của ông T được bồi thường 50% tiền sử dụng đất đối với diện tích 46,25m2 đã thu hồi của gia đình ông T tại thửa đất số 17, tờ bản đồ số 7, khối 3, phường H là đúng pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Đinh Thị Th, chị Vương DT, anh Vương Gia T (Vợ và con của ông Vương Thừa T) đồng ý với ý kiến của người khởi kiện ông Vương Thừa T.

Theo đại diện Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA thì, trước khi cổ phần là doanh nghiệp Nhà nước có khu tập thể được xây dựng từ trước năm 1978, được phân cho các hộ gia đình cán bộ, công nhân viên sử dụng qua các thời kỳ. Công ty không làm thủ tục thuê đất, không nộp tiền sử dụng đất đối với khu đất nhà tập thể có tài sản thanh lý. Năm 2006, doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng khu tập thể, đồng thời tài sản trên đất đã hết khấu hao, nên ngày 27/12/2006, Công ty đã ban hành thông báo số: 127/TB/C.ty về việc thanh lý tài sản và bán tài sản trên đất tại khu tập thể và đã bán cho 9 hộ trong đó có hộ ông Vương Thừa T đang sinh sống tại đây (không hóa giá phần giá trị quyền sử dụng đất). Nguồn gốc đất khu tập thể là đất được nhà nước giao cho công ty sử dụng trước khi có luật đất đai. Năm 2004, khi tiến hành thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp, công ty không đưa khu đất này vào xác định giá trị quyền sử dụng đất để lập phương án cổ phần hóa, Công ty cũng không bàn giao khu đất này cho địa phương quản lý.

Quá trình đối thoại cũng như qua tranh luận tại phiên tòa các bên đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã mở phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại; việc tranh tụng tại phiên toà của Hội đồng xét xử được tiến hành đúng theo quy định của Luật tố tụng Hành chính. Người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện và chấp hành quyền, nghĩa vụ của mình đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung sau khi đánh giá, nhận định Kiểm sát viên đề nghị:

Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 116; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Căn cứ 18, 21, 28, 29, 30, 37, 38, 39 của Luật Khiếu nại; khoản 2 Điều 101, Điều 204 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 21 Nghị định số: 43/2014/NĐ- CP, ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định về thu tiền sử dụng đất;

Căn cứ Điều 348 Luật Tố tụng hành chính 2015; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội.

Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vương Thừa Tuấn. Hủy Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T; Hủy một phần quyết định số: 575/QĐ.UBND, ngày 27 tháng 02 năm 2019 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về việc giải quyết khiếu nại của 09 hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA (lần 2); Hủy Quyết định số: 4697/QĐ-UBND, ngày 27/7/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố V về việc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình ông (bà) Vương Thừa T – Đinh Thị Th.

Buộc người bị kiện phải thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định.

Về án phí: Buộc người bị kiện phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và các đương sự, các quy định pháp luật hiện hành. Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định của Luật Tố tụng hành chính, thu thập tài liệu chứng cứ, mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, đối thoại và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng.

Người bị kiện Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ và có đơn xin xét xử vắng mặt, những người khác cũng đã được triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính để xét xử.

[2] Về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết:

Quyết định số: 575/QĐ.UBND, ngày 27 tháng 02 năm 2019 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về việc giải quyết khiếu nại của 09 hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA (lần 2) và Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T; Quyết định 4697/QĐ- UBND, ngày 27/7/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố V, về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân là các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An theo khoản 1 Điều 30; khoản 3, 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.

[3] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 25/3/2019, ông Vương Thừa T có đơn khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định số: 575/QĐ.UBND, ngày 27 tháng 02 năm 2019 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An là đang trong thời hiệu khởi kiện theo điểm a khoản 3 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính. Các Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết khiếu nại lần đầu; Quyết định số: 4697/QĐ- UBND, ngày 27/7/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố V về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất là các quyết định có liên quan để tòa án xem xét.

[4] Về trình tự khiếu nại: Sau khi nhận được Quyết định số: 4697/QĐ- UBND, ngày 27/7/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố V “Về việc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân”, trong đó giao cho hộ ông (bà) Vương Thừa T – Đinh Thị Th lô đất ở số 02, diện tích 46,25m2 tại khối 3, phường H có xác định mức thu 100% tiền sử dụng đất, ông Vương Thừa T cho rằng việc giao đất thu 100% tiền sử dụng đất là sai pháp luật cho nên ông đã có đơn khiếu nại gửi đến Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V. Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V ban hành Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018 về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T, ông T không đồng ý với Quyết định số: 2958, ông T tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An là đúng trình tự khiếu nại được quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật Khiếu nại năm 2011.

[5] Xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính bị khởi kiện:

[5.1] Đối với Quyết định số 2958/QĐ-UBND ngày 23/5/2018 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T.

- Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành: Sau khi nhận được đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T đối với Quyết định số: 4697/QĐ-UBND, ngày 27/7/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố V, Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V đã có Quyết định giao nhiệm vụ xác minh khiếu nại. Thành lập đoàn thanh tra liên ngành; Tổ chức làm việc với các bên liên quan; thu thập tại liệu chứng cứ; trên cơ sở báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi trường về kết quả kiểm tra xác minh khiếu nại, tổ chức xác minh hiện trạng; tổ chức đối thoại…Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V đã ban hành Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018 về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo Điều 18, Điều 31 của Luật Khiếu nại và Điều 204 của Luật Đất đai năm 2013.

- Về nội dung:

Ông Vương Thừa T khiếu nại Quyết định số: 4697/QĐ-UBND, ngày 27/7/2017, của Ủy ban nhân dân Thành phố V “Về việc, giao đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân”, trong đó giao cho hộ gia đình ông Vương Thừa T – Đinh Thị Th lô đất ở số 02, diện tích 46,25m2 tại khối 3, phường H có xác định mức thu 100% tiền sử dụng đất không đúng quy định là khiếu nại sai. Ban đầu ông T đề nghị xác định giấy tờ mua thanh lý tài sản của ông là giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 100 Luật Đất đai 2013 để không thu tiền sử đụng đất khi giao đất ở cho gia đình ông là không có cơ sở. Sau đó ông T thay đổi yêu cầu và căn cứ khoản 1, 2 Điều 20 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP của chính phủ; điểm a khoản 1 Điều 7 Nghị định số:45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất và khoản 2, 3 Điều 21 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai để yêu cầu được bồi thường 50% tiền sử dụng đất, Hội đồng xét xử xét thấy rằng:

- Về nguồn gốc thửa đất:

Hồ sơ quản lý đất đai qua các thời kỳ có những biến động về diện tích. Bản đồ đo đạc gần nhất năm 2001 thể hiện là thửa đất số 17 tờ bản đồ số 7, diện tích 918,7 m2, loại đất là đất chuyên dùng (đất xây dựng) thuộc quyền quản lý của Công ty gia công xuất nhập khẩu VL (Thuộc công ty xuất nhập khẩu NA, nay là công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA) trên thửa đất có 03 dãy nhà, trong đó có dãy nhà lớn nhất là nơi 09 hộ gia đình đang sinh sống. Đất có nguồn gốc là đất sử dụng trước ngày 15/10/1993. Sau khi cổ phần hóa Doanh nghiệp đã thanh lý nhà tập thể trên đất, nhưng không bàn giao đất cho địa phương quản lý. Đến năm 2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã có Quyết định số: 472/QĐ-UBND, ngày 06/6/2016 thu hồi 918,7m2 đất sản xuất kinh doanh (SKC) của Công ty giao Ủy ban nhân dân Thành phố đưa vào quản lý theo quy hoạch và pháp luật. Như vậy toàn bộ thửa đất này thuộc quyền sử dụng của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA cho đến khi được nhà nước thu hồi. Các cá nhân ở trên đất không có quyền sử dụng đất.

- Về tài sản trên đất: Căn cứ vào hồ sơ thanh lý tài sản của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA thì nguồn gốc gian nhà hộ gia đình ông (bà) Vương Thừa T – Đinh Thị Th sử dụng là nhà tập thể của Công ty cho cán bộ công nhân viên sử dụng, về bản chất, chính sách tại thời điểm đó là nhà tập thể dùng cho cán bộ công nhân viên của Công ty mượn ở để cán bộ yên tâm công tác. Đất và nhà tập thể vẫn thuộc quyền quản lý, sử dụng của Công ty là có căn cứ. Hồ sơ thanh lý hóa giá của Công ty thể hiện, ông Vương Thừa T là người mua hóa giá tài sản trên đất của công ty năm 2006, ông T đã mua một gian. Điều này thể hiện ở Thông báo số: 127TB/Cty, ngày 25/12/2006, ông T chỉ mua thanh lý tài sản chứ không phải mua nhà đất của công ty.

Như vậy, căn cứ vào các quy định của pháp luật thì thời điểm hóa giá sau ngày 01/7/2004, cho nên phải nộp 100% tiền sử dụng đất theo quy định tại khoản 7 Điều 20 Nghị định số: 45/NĐ-CP. Do đó, Quyết định số: 4697/QĐ- UBND, ngày 27/7/2017, của Ủy ban nhân dân Thành phố V “Về việc, giao đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân”, trong đó giao cho hộ ông Vương Thừa T – Đinh Thị Th lô đất ở số 02, diện tích 46,25m2 tại khối 3, phường H có xác định mức thu 100% tiền sử dụng đất là đúng quy định của pháp luật.

Theo chủ trương của Ủy ban nhân dân tỉnh, với mục tiêu nhằm cải thiện nơi ở, sinh hoạt cho người dân hiện đang sống tại các khu tập thể, đồng thời góp phần chỉnh trang đô thị, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã phê duyệt Đề án giải quyết nhà ở tập thể cũ trên địa bàn thành phố V. Thực hiện Luật Đất đai năm 2013 kết hợp với mục tiêu của đề án giải quyết nhà tập thể, Ủy ban nhân dân Thành phố đã giải quyết các khu tập thể theo hướng quy hoạch chia lô đất ở; đồng thời xét giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân sinh sống trong khu tập thể để đảm bảo quyền lợi cho người dân.

Đối chiếu chính sách về bồi thường, vận dụng khoản 2, Điều 79 Luật Đất đai năm 2013 và khoản 4, Điều 6, Nghị định số: 47/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ, Ủy ban nhân dân Thành phố V giao cho hộ ông gia đình ông Vương Thừa T – Đinh Thị Th lô đất ở tại khu quy hoạch chia lô đất ở khu tập thể Công ty có thu tiền sử dụng đất, giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An quy định tại Quyết định số: 739/QĐ-UBND.ĐC, ngày 16/10/2015 là đúng quy định pháp luật.

Ông Vương Thừa T căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 20, Nghị định 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ để công nhận quyền sử dụng đất với diện tích ông đang sử dụng. Căn cứ là các giấy tờ quy định tại khoản 2, 3 Điều 21 Nghị Định số 43/2014/NĐ-CP, như giấy xin phòng ở năm 1997, hộ khẩu… và việc tính thu tiền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính Phủ, ông T đề nghị áp dụng điều khoản trên là không có cơ sở, vì Điều 20, 21 của Nghị định số:43/2014/NĐ-CP và khoản 1 Điều 7 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP của Chính phủ chỉ áp dụng với trường hợp công nhận quyền sử dụng đất thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặt khác, theo quy định tại điểm e, khoản 2, Điều 21 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP thì: “Giấy tờ đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở”, việc nhà nước giao đất cho công ty thể hiện qua hồ sơ địa chính các thời kỳ thể hiện thửa đất số 17, tờ bản đồ số 7, diện tích 918,7m2, loại đất là đất chuyên dùng (đất xây dựng) không phải đất ở.

Như vậy, Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018 về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T về nội dung là có căn cứ pháp luật, nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vương Thừa T.

[5.2] Đối với Quyết định số: 575/QĐ.UBND, ngày 27 tháng 02 năm 2019 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về việc giải quyết khiếu nại của 09 hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA trong đó có hộ gia đình ông Vương Thừa T.

- Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành: Sau khi nhận được đơn khiếu nại của ông Trần Huy H người đại diện theo ủy quyền của các hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty trong đó có hộ gia đình ông Vương Thừa T khiếu nại Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018, của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã tổ chức kiểm tra, xác minh hiện trạng sử dụng đất, Kiểm tra hồ sơ lưu trữ, làm việc với các bên liên quan; tổ chức đối thoại… Chủ tịch ủy ban nhân tỉnh Nghệ An đã ban hành Quyết định số: 575/QĐ. UBND, ngày 27 tháng 02 năm 2019 về việc giải quyết khiếu nại của 09 hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty là đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo Điều 21, Điều 40 của Luật Khiếu nại và Điều 204 của Luật Đất đai năm 2013.

- Về nội dung:

Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An xác định nguồn gốc thửa đất số 17 tờ bản đồ số 7, diện tích 918,7m2, thuộc quyền quản lý của Công ty gia công xuất nhập khẩu VL (Thuộc công ty xuất nhập khẩu NA, nay là Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA) Sau khi cổ phần hóa công ty đã bán thanh lý, hóa giá tài sản trên đất theo chủ trương của Hội đồng quản trị công ty. Sau khi cổ phần hóa Ủy ban nhân dân tỉnh đã có quyết định thu hồi thửa đất này giao cho Ủy ban nhân dân thành phố V quản lý theo quy hoạch và pháp luật.

Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã xem xét các loại hồ sơ, giấy tờ về việc thanh lý, hóa giá tài sản của Công ty và các hộ gia đình là mua tài sản trên đất chứ không phải mua thanh lý hóa giá nhà ở gắn liền với đất. Vì vậy, việc sử dụng nhà hóa giá của các hộ gia đình, cá nhân không được xác định là có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 100 của Luật Đất đai 2013. Như vậy việc các hộ gia đình, cá nhân được giao sử dụng đất phải nộp 100% tiền sử dụng đất theo giá tại thời điểm có quyết định công nhận QSD đất theo Điều 9, Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 là đúng pháp luật.

Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA không có quyền bán tài sản gắn liền với đất, không được phép giao đất, bởi từ thời điểm 01/7/2004, (khi Luật đất đai 2003 có hiệu lực) nhà nước đã nghiêm cấm các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với quy định của pháp luật trong giao đất…gây thiệt hại đến tài nguyên đất đai, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, như quy định tại Điều 141 của Luật Đất đai năm 2003.

Việc Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An giữ nguyên các quyết định của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về giải quyết khiếu nại của 09 hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA thuộc khối 3, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An là có căn cứ pháp luật. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận khởi kiện của Vương Thừa T về yêu cầu hủy một phần Quyết định số: 575/QĐ.UBND, ngày 27 tháng 02 năm 2019 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An.

[5.3] Đối với Quyết định số: 4699/QĐ-UBND, ngày 27/7/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố V, về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân.

Do các quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đối với khiếu nại của ông Vương Thừa T là đúng pháp luật, cho nên không có căn cứ hủy Quyết định 4699/QĐ-UBND, ngày 27/7/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố V, về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân như yêu cầu của ông T.

[6] Về yêu cầu bồi thường 50% tiền sử dụng đất khi nhà nước thu hồi 46,25m2 thuộc thửa đất số 17 tờ bản đồ số 7 tại khối 3 phường H cho hộ gia đình ông T với số tiền là 134.125.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 06/6/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh đã có Quyết định số: 472/QĐ-UBND, thu hồi 918,7m2 đất của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA sau khi Công ty cổ phần hóa. Sau khi quy hoạch phân lô, Hộ gia đình ông T nhận giao sử dụng đất diện tích 46,25m2 và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu bồi thường 50% tiền sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình ông Vương Thừa T.

Như vậy, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện, nên bác yêu cầu khởi kiện của ông Vương Thừa T cũng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An tại phiên tòa.

[7] Về án phí: Mặc dù yêu cầu khởi kiện của ông Vương Thừa T không được chấp nhận nhưng ông Vương Thừa T là người cao tuổi cho nên ông T không phải chịu án phí Hành chính sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 3, 4 Điều 32; điểm a khoản 3 Điều 116; điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính;

Căn cứ khoản 3 Điều 62; Điều 66; Điều 69, Điều 82, của Luật Đất đai năm 2013; Điều 19 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; khoản 7, Điều 20 Nghị định số: 45/2014/NĐ-CP, ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về thu tiền sử dụng đất; Thông tư số: 116/2004/TT-BTC, ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 197/NĐ-CP, ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số:58/2015/QĐ-UBND, ngày 13/10/2015; Quyết định số: 739/QĐ-UBND, ngày 16/10/2015; Quyết định số: 472/QĐ-UBND, ngày 06/6/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Thông tư số: 07/2013/TT-TTCP, ngày 31/10/2013 của Thanh tra chính phủ, quy định về quy trình giải quyết khiếu nại hành chính;

Căn cứ Điều 348 Luật Tố tụng Hành chính; khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vương Thừa T đề nghị Tòa án: Hủy bỏ một phần Quyết định số: 575/QĐ.UBND, ngày 27 tháng 02 năm 2019 của Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An về việc giải quyết khiếu nại của 09 hộ gia đình trú tại khu tập thể Công ty cổ phần xuất nhập khẩu NA; hủy bỏ Quyết định số: 2958/QĐ-UBND, ngày 23/5/2018 của Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Vương Thừa T; hủy bỏ Quyết định số: 4697/QĐ-UBND, ngày 27/7/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố V, về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân. Yêu cầu bồi thường 50% tiền sử dụng đất khi nhà nước thu hồi 46,25m2 thuộc thửa đất số 17 tờ bản đồ số 7 tại khối 3 phường H cho gia đình ông Vương Thừa T là 134.125.000 đồng.

Về án phí: Ông Vương Thừa T là người cao tuổi cho nên ông T không phải chịu án phí Hành chính sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Người khởi kiện, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

336
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 03/2021/HC-ST

Số hiệu:03/2021/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về