TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 472/2023/HC-PT NGÀY 27/06/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI THUỘC TRƯỜNG HỢP BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
Ngày 27 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 251/2023/TLPT-HC ngày 13 tháng 4 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai thuộc trường hợp bồi thường, hỗ trợ, tái định cư”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số: 112/2022/HC-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1378/2023/QĐ-PT ngày 30 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Hoàng Nghĩa K, sinh năm 1959 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 43/108 Ô4, khu phố H, thị trấn L1, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Hoàng Đức T, sinh năm 1975 (có mặt) Địa chỉ: Số 103 H, phường R, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Người bị kiện:
1/Uỷ ban nhân dân huyện L 2/Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Kim P – Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L (xin xét xử vắng mặt) Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp:
- Ông Mạch Văn L1 – Phó trưởng phòng Tài nguyên và môi trường huyện L (có mặt)
- Ông Nguyễn Thanh V1 – Quyền chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn L1, huyện L (xin vắng mặt)
- Ông Trang Tử Tự T3 – Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất huyện L (có mặt).
3/Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (xin xét xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Thành N3 – Chuyên viên chi cục Quản lý đất đai thuộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/Uỷ ban nhân dân thị trấn L1, huyện L Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Quốc C1 – Công chức địa chính (có mặt)
2/Bà Trần Thị L3, sinh năm 1966 (văng mặt) Địa chỉ: Tổ 43/108 Ô4, khu phố H, thị trấn L1, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Đức T, sinh năm 1975 (có mặt) - Người kháng cáo: Người bị kiện Uỷ ban nhân dân huyện L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 03-12-2020, Ủy ban nhân dân huyện L ban hành Quyết định số 3964/QĐ-UBND về việc thu hồi 184,7m2 đất do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý (ông Hoàng Nghĩa K và bà Trần Thị L3 đang sử dụng) để đầu tư xây dựng công trình đường quy hoạch số 14, thị trấn L1, huyện L.
Cũng trong ngày 03-12-2020, Uỷ ban nhân dân huyện L ban hành Quyết định 3974/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ ông (bà) Hoàng Nghĩa K và Trần Thị L3 do Nhà nước thu hồi đất để đầu tư xây dựng công trình đường quy hoạch số 14, thị trấn L1, huyện L (Quyết định 3974). Trong đó:
- Diện tích đất thu hồi: 184,7m2 là đất nhà nước, không bồi thường.
- Nhà, vật kiến trúc: Xây dựng năm 2017 trên đất nhà nước quản lý, không đủ điều kiện bồi thường.
- Hoa màu, cây trái: 2.068.500 đồng (nhãn, mãng cầu).
- Tái định cư/giao đất ở mới: Không Ông K, bà L3 không đồng ý đã làm đơn khiếu nại Quyết định 3974/QĐ- UBND, yêu cầu được bồi thường về đất, vật kiến trúc trên đất và xem xét giao một lô đất ở mới. Ngày 29-4-2021, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 1744/QĐ-UBND với nội dung bác khiếu nại của ông K và bà L3.
Ông K, bà L3 không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại lần đầu, tiếp tục làm đơn khiếu nại. Ngày 29-11-2021, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai số 4357/QĐ- UBND với nội dung bác khiếu nại của ông K, bà L3.
Ông K, bà L3 khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy Quyết định số 3974/QĐ-UBND ngày 03-12-2020 của Uỷ ban nhân dân huyện L.
- Hủy Quyết định số 1744/QĐ-UBND ngày 29-4-2021 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L.
- Hủy Quyết định số 4357/QĐ-UBND ngày 29-11-2021 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Buộc Uỷ ban nhân dân huyện L thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho ông Hoàng Nghĩa K đối với diện tích đất 184,7m2 theo quy định của pháp luật.
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại Tòa án, người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện cùng trình bày:
Diện tích đất ông K bị thu hồi có nguồn gốc do ông Nguyễn Lam S khai phá từ năm 1982 (không có giấy tờ về việc khai phá). Ngày 01-6-1994, ông S chuyển nhượng cho ông K theo Giấy sang nhượng công lao động, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố. Tại thời điểm nhận chuyển nhượng, trên đất có 01 căn nhà lá.
Gia đình ông K ở trên đất từ năm 1994. Đến năm 2004, nhà nước làm đường tỉnh lộ 44A (nay là đường N3) đã thu hồi của gia đình ông K diện tích đất 564,4m2. Gia đình ông K được bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản trên đất với số tiền tổng cộng là 36.369.657 đồng.
Năm 2005, ông K được phát phiếu đi kê khai, đăng ký đối với diện tích đất còn lại sau khi thu hồi đất. Năm 2006, ông K có tên trong sổ mục kê thửa đất số 18, tờ bản đồ 165, diện tích 181,6m2. Đến năm 2017, gia đình ông K xây nhà cấp 4 trên đất. Quá trình sử dụng đất của gia đình ông K không tranh chấp với ai và không bị ai ngăn cản. Ông K đóng thuế sử dụng đất từ năm 1996 nhưng biên lai bị thất lạc, chỉ còn thông báo nộp thuế từ năm 2012.
Ngày 03-12-2020, Uỷ ban nhân dân huyện L ban hành Quyết định thu hồi hết phần đất còn lại của gia đình ông K là 184,7m2 nhưng không bồi thường về đất và vật kiến trúc trên đất, không giao lô đất ở mới cho gia đình ông K với lý do diện tích 184,7m2 là đất Nhà nước quản lý là không có cơ sở.
Do vậy, ông K khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định 3974/QĐ-UBND, Quyết định 1744/QĐ-UBND, Quyết định 4357/QĐ-UBND, buộc Uỷ ban nhân dân huyện L thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông K đối với diện tích đất 184,7m2 theo quy định của pháp luật.
Người bị kiện trình bày:
- Ý kiến của Uỷ ban nhân dân huyện L và chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L:
Yêu cầu bồi thường về đất:
Diện tích 184,7m2 đất thu hồi của ông K thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 165, ông K đăng ký sử dụng trong hồ sơ địa chính năm 2006, tương ứng một phần thửa đất số 63, tờ bản đồ địa chính số 38 ký duyệt năm 1997, diện tích 33.506m2 đất chuyên dùng khác do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý có đăng ký, kê khai. Sau năm 1997, ông Nguyễn Lam S tự ý vào chiếm đất Uỷ ban nhân dân thị trấn quản lý để canh tác, do đó không có tên ông S đăng ký sử dụng đất trong hồ sơ địa chính năm 1997, đến năm 1999 ông S chuyển nhượng bằng giấy tay cho ông K sử dụng đến nay, không phải đất của hộ dân tự khai phá.
Về quy hoạch sử dụng đất: Theo quy hoạch xây dựng khu du lịch H3 được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 2758/QĐ-UBND ngày 20-11-1996 thuộc quy hoạch đất du lịch. Quy hoạch chung xây dựng huyện L đến năm 2020 được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 4492/QĐ-UBND ngày 11-12-2007 thuộc quy hoạch đất giao thông. Quy hoạch sử dụng đất huyện L giai đoạn 2000 - 2010 được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt tại quyết định số 571/QĐ-UBND ngày 20-01-2003 thuộc quy hoạch đất bằng chưa sử dụng. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 05 năm kỳ đầu (2011- 2015) của huyện L được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt tại Quyết định 588/QĐ-UBND ngày 20-3-2014 thuộc quy hoạch đất giao thông.
Thửa đất số 18, tờ bản đồ số 165, diện tích 184,7m2 sử dụng không phù hợp với quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt nên không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận. Do đó, Uỷ ban nhân dân huyện L không bồi thường diện tích 184,7m2 đất cho ông K, bà L3 là đúng quy định của pháp luật.
Ông K, bà L3 cho rằng thửa đất trên đã sử dụng ổn định, không tranh chấp, hàng năm có đóng thuế đất ở cho nhà nước nên đủ điều kiện được bồi thường về đất nhưng không cung cấp được giấy tờ nào xác nhận việc sử dụng đất ổn định, không tranh chấp.
Khoản 4 Điều 82 Luật Đất đai 2013 quy định trường hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất: “Trường hợp không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này”.
Về yêu cầu bồi thường vật kiến trúc trên đất:
Theo biên bản kiểm đếm ngày 27-8-2018 của Hội đồng Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư huyện, trên thửa đất thu hồi ông K, bà L3 đang sử dụng có căn nhà cấp 4A3, diện tích 40m2 và vật kiến trúc gồm mái che tôn, hàng rào lưới B40, trụ cổng xây gạch, cổng sắt, đồng hồ điện, đồng hồ nước.
Theo xác nhận của Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 thì thời điểm ông K xây dựng nhà và vật kiến trúc là năm 2017. Ông K có đơn xin cam kết ngày 01-8- 2017, cam kết sau này nhà nước có lấy đất làm gì thì gia đình ông tự tháo dỡ, trả lại mặt bằng cho nhà nước và không yêu cầu gì, nếu sai xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật. Ngày 20-11-2019, Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 đã lập biên bản vi phạm hành chính số 15/BB-VPHC đối với ông K do xây dựng công trình không phù hợp với quy hoạch xây dựng đã được phê duyệt.
Căn cứ khoản 2 Điều 92 Luật Đất đai năm 2013: “Tài sản gắn liền với đất được tạo lập trái quy định của pháp luật hoặc tạo lập từ sau khi có thông báo thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không được bồi thường”.
Căn cứ khoản 2 Điều 16 Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành kèm theo Quyết định 52/2014/QĐ-UBND ngày 31-10-2014 của Uỷ ban nhân dân Tỉnh: “Tài sản gắn liền với đất được tạo lập trái quy định của pháp luật, hoặc tạo lập từ sau khi có thông báo thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không được bồi thường tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất”.
Nhà và vật kiến trúc ông Hoàng Nghĩa K xây dựng năm 2017 trên thửa đất có nguồn gốc do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý, khi xây dựng ông K có đơn cam kết gửi lãnh đạo Uỷ ban nhân dân thị trấn L1, cam kết tự tháo dỡ công trình khi nhà nước thu hồi đất, do đó khi giải tỏa thu hồi đất làm đường quy hoạch số 14, Uỷ ban nhân dân huyện L không bồi thường nhà và vật kiến trúc cho ông K, bà L3 là đúng quy định.
Về yêu cầu cấp lô đất ở mới:
Diện tích 184,7m2 đất thu hồi thuộc thửa số 18, tờ bản đồ số 165 do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý. Tại văn bản số 452/UBND-VP ngày 08-3- 2021, Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 xác nhận ông K không ở tại căn nhà cấp 4A3 xây dựng trên thửa đất thu hồi mà để cho con ở, ông K hiện đang ở căn nhà khác xây dựng trên thửa đất số 33, tờ bản đồ số 165, diện tích 275,7m2 cách căn nhà bị giải tỏa khoảng 30m. Ông K, bà L3 được cấp sổ hộ khẩu tại địa chỉ tổ 43/108 Ô4, khu phố H6, thị trấn L1 là thuộc thửa đất số 33, tờ bản đồ số 165 (vị trí căn nhà đang ở), không thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 165 (vị trí căn nhà bị giải tỏa).
Nhà cấp 4A3 xây dựng năm 2017 trên đất Nhà nước do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý, đã bị lập biên bản vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, không đủ điều kiện xét cấp Giấy chứng nhận, không được bồi thường về đất và công trình xây dựng trên đất. Khi đầu tư xây dựng công trình Đường quy hoạch số 14, Uỷ ban nhân dân huyện L đã thu hồi đất do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý, không thu hồi đất của ông K và bà L3, khi giải tỏa nhà ông K và bà L3 không phải di chuyển chỗ ở do không trực tiếp ở tại căn nhà cấp 4A3 xây dựng trên thửa đất thu hồi nên không đủ điều kiện xem xét giao lộ đất ở mới.
Đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông K.
- Ý kiến chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu:
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không gửi văn bản ý kiến về việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trình bày thống nhất với ý kiến của Uỷ ban nhân dân huyện L và chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L. Diện tích đất 184,7m2 thu hồi của ông K và bà L3, theo xác nhận của Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 là lấn chiếm đất nhà nước quản lý, không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đủ điều kiện bồi thường về đất và vật kiến trúc trên đất, không đủ điều kiện giao 01 lô đất ở mới. Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của ông K.
Về hồ sơ bồi thường cho gia đình ông K năm 2004: Thực hiện công trình đường tỉnh lộ 44A, gia đình ông K bị thu hồi 564,4m2. Ngày 05-7-2004, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã ban hành Quyết định số 4655/QĐ-UBND bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản trên đất cho gia đình ông K. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã thành lập đoàn thanh tra để thanh tra lại hồ sơ bồi thường năm 2004 đối với trường hợp của ông K, hiện nay chưa có kết quả.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
- Ý kiến bà Trần Thị L3: Bà L3 thống nhất với ý kiến và yêu cầu khởi kiện của ông K, không bổ sung gì thêm.
- Ý kiến Uỷ ban nhân dân thị trấn L1: Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 thống nhất với ý kiến của Uỷ ban nhân dân huyện L và chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L. Thửa đất số 18, tờ bản đồ 165, diện tích 184,7m2 nằm trong thửa đất số 63, tờ bản đồ địa chính số 38, diện tích 33,506m2 là đất do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý, có đăng ký trong hồ sơ địa chính năm 1997 bị ông Nguyễn Lam S tự ý vào chiếm đất, sau đó sang nhượng cho ông K. Về nhà và vật kiến trúc trên đất: Ông K xây nhà năm 2017, có đơn cam kết tự tháo dỡ khi nhà nước thu hồi đất vào ngày 01-8-2017. Ông K, bà L3 cho rằng sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, đủ điều kiện bồi thường là không có cơ sở.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 112/2022/HC-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Nghĩa K:
- Hủy Quyết định số 3974/QĐ-UBND ngày 03-12-2020 của Ủy ban nhân dân huyện L.
- Hủy Quyết định số 1744/QĐ-UBND ngày 29-4-2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L.
- Hủy Quyết định số 4357/QĐ-UBND ngày 29-11-2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Buộc Ủy ban nhân dân huyện L thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho ông Hoàng Nghĩa K và bà Trần Thị L3 đối với diện tích đất 184,7m2 thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 165 tại thị trấn L1, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06-10-2022 người bị kiện Uỷ ban nhân dân huyện L kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện ông Hoàng Nghĩa K (có ông Hoàng Đức T là đại diện theo ủy quyền) không đồng ý yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm. Người bị kiện xin xét xử vắng mặt.
Trong phần tranh luận:
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện phát biểu: Thời điểm năm 2004 khi thu hồi một phần diện tích thuộc thửa đất trên thì Uỷ ban nhân dân có bồi thường, hỗ trợ là do cán bộ làm công tác bồi thường thời điểm đó là không đúng quy định, trong hồ sơ bồi thường có 2 biên bản cùng ngày cùng giờ cùng người lập nhưng nội dung khác nhau về nguồn gốc đất khai phá và lấn chiếm của Nhà nước. Uỷ ban nhân dân huyện đã báo cáo Uỷ ban nhân dân Tỉnh, và Uỷ ban nhân dân Tỉnh đang thanh tra theo thông tin thì sẽ chuyển hồ sơ sang cơ quan hình sự.
Về nguồn gốc đất theo sổ mục kê và sổ địa chính từ năm 1997 là do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý, sử dụng. Do thời điểm đó phần đất hoang hóa, việc quản lý lỏng lẻo, sau này khi tách xã thì Uỷ ban nhân dân Tỉnh thuê trung tâm kỹ thuật đo vẽ lại toàn bộ khu đất để quản lý. Ông S đã tự ý vào chiếm đất do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 quản lý để sử dụng, sau đó chuyển nhượng bằng giấy tay cho ông K, nên ông K không đủ điều kiện để được bồi thường khi thu hồi đất. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của ông K.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày: Phần đất ông K nhận chuyển nhượng của ông S, năm 2003 khi thu hồi làm đường Nhà nước đã có bồi thường cho ông K, năm 2006 chính quyền công nhận phê duyệt số tờ số thửa khi ông K đăng ký kê khai, năm 2011 phần đất này có quy hoạch có thông báo cho hộ dân kê khai để bồi thường nhưng không thực hiện được. Quá trình sinh sống ông K có kê khai hộ khẩu, sinh sống ổn định. Vấn đề vì sao năm 2004 đã bồi thường nhưng sau đó không bồi thường thì tại cấp sơ thẩm cũng được Tòa án làm rõ. Phần đất này hiện tại không phải là đất công, đây là vụ án dây gồm 10 hộ thu hồi đất, đã có 1 bản án phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm, còn 9 vụ án sơ thẩm còn lại đã được Tòa án cấp sơ thẩm xét xử tương tự như ông K. Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Vụ án từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý đến khi xét xử đã thực hiện đầy đủ các quy định của Luật tố tụng hành chính.
- Về nội dung: Căn cứ sổ mục kê năm 1997 thì diện tích đất ông K bị thu hồi thuộc thửa 63 là do Uỷ ban nhân dân quản lý, theo sổ mục kê năm 2006 thì ông K là người đứng tên chủ sử dụng. Do đó, chưa đủ cơ sở khẳng định diện tích đất thu hồi là đất công. Phần diện tích ông K nhận chuyển nhượng từ ông S, sử dụng ổn định từ đó đến nay. Năm 2003 khi thu hồi một phần diện tích để làm đường thì ông K được bồi thường, hỗ trợ. Do đó, cùng 1 phần đất mà Uỷ ban nhân dân thu hồi và xác định nguồn gốc khác nhau là có mâu thuẫn. Hộ ông K đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 2013. Uỷ ban nhân dân huyện L thu hồi nhưng không bồi thường là không đúng quy định pháp luật. Các quyết định giải quyết khiếu nại bác khiếu nại ông K là không đúng. Bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ, đề nghị bác kháng cáo của người bị kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện xin xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính tiến hành xét xử vụ án.
[2] Thực hiện công trình đường quy hoạch số 14, thị trấn L1, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ngày 03-12-2020 Uỷ ban nhân dân huyện L ban hành Quyết định 3964/QĐ-UBND thu hồi diện tích 184,7m2 do ông Hoàng Nghĩa K, bà Trần Thị L3 đang sử dụng. Cùng ngày 03-12-2020 Uỷ ban nhân dân huyện L ban hành Quyết định 3974/QĐ-UBND bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông K, có nội dung không bồi thường về đất. Ông K, bà L3 có khiếu nại. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L ban hành Quyết định số 1744/QĐ-UBND ngày 29-4-2021 giải quyết khiếu nại lần 1, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Quyết định số 4357/QĐ-UBND ngày 29-11-2021 giải quyết khiếu nại lần 2, đều bác khiếu nại của ông K, bà L3. Do đó, người khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy các quyết định hành chính liên quan đến việc bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất, buộc Uỷ ban nhân dân huyện L thực hiện bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi diện tích 184,7m2.
[3] Bản án sơ thẩm nhận định để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện như sau:
- Theo ông Hoàng Nghĩa K trình bày: Nguồn gốc đất do ông Nguyễn Lam S khai phá năm 1985, sử dụng đến năm 1994 thì sang nhượng lại cho ông K, chứng cứ là giấy sang nhượng công lao động viết tay ngày 01-6-1994, có xác nhận của tổ trưởng là ông Trương Đình H2. Diện tích đất thu hồi 184,7m2 là một phần trong tổng diện tích đất ông K nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Lam S. Lời khai của ông K được những người sống lâu năm tại địa phương là các ông (bà) Hoắc Văn T4, Nguyễn Thị T5, Nguyễn Thị H5, Hoàng Đ5, Nguyễn Thanh N5, Nguyễn Thị L5 và trưởng khu phố H6 là ông Giang Đức T6 xác nhận.
Thực hiện công trình đường tỉnh lộ 44A giai đoạn II (đợt 3-4), năm 2004 gia đình ông K bị thu hồi 564,4m2 đất (nằm trong diện tích đất mà ông K đã nhận chuyển nhượng từ ông S). Theo biên bản kiểm kê ngày 27-8-2003, trên đất có hàng rào dây kẽm gai, trụ bê tông, xoài, tràm, mãng cầu. Theo biên bản họp xét duyệt quyền sử dụng đất ngày 05-12-2003, diện tích đất 564,4m2 có nguồn gốc do tự khai phá từ năm 1993, đủ điều kiện đền bù. Theo Quyết định số 4655/QĐ- UBND ngày 05-7-2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về việc phê duyệt kinh phí đền bù cho hộ dân thì gia đình ông K được bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản trên đất với tổng số tiền là 36.369.657 đồng.
Như vậy, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trên thì lời khai của ông K về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất là có căn cứ và thực tế gia đình ông K đã được bồi thường về đất và tài sản trên đất khi nhà nước thu hồi 564,4m2 đất vào năm 2004. Phần diện tích 184,7m2 mà Uỷ ban nhân dân thu hồi vào năm 2020 là phần diện tích còn lại của thửa đất trên.
- Uỷ ban nhân dân huyện L cho rằng diện tích 184,7m2 thu hồi của ông K là đất do nhà nước quản lý, bị ông Nguyễn Lam S tự ý chiếm đất, không phải đất của hộ dân khai phá là không có cơ sở chấp nhận, bởi:
+Cùng một thửa đất, cùng một nguồn gốc và quá trình sử dụng nhưng khi thu hồi 564,4m2 đất vào năm 2004 thì gia đình ông K được bồi thường với lý do đất tự khai phá. Phần diện tích đất 184,7m2 còn lại, năm 2020 thu hồi thì lại không được bồi thường với lý do đất lấn chiếm, không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có sự mâu thuẫn.
+Theo hồ sơ địa chính được phê duyệt năm 1997 thì diện tích đất 184,7m2 tương ứng một phần thửa đất số 63, tờ bản đồ số 38, diện tích 33.506m2, loại đất chuyên dùng khác (CDK) do Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 đăng ký kê khai và có tên trong sổ mục kê. Tuy nhiên, thửa đất số 63, diện tích 33.506m2 có nhiều hộ dân sinh sống và đã đăng ký thường trú, tạm trú qua nhiều thế hệ. Năm 2004, thực hiện công trình đường tỉnh lộ 44A, một số hộ dân đã được đền bù về đất và tài sản gắn liền với đất, trong đó gia đình ông K. Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Ủy ban nhân dân thị trấn L1 cũng xác định diện tích đất 33.506m2 không nằm trong danh sách quỹ đất công.
+Mặt khác, năm 2005, Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 phát phiếu cho các hộ dân sinh sống trên thửa đất số 63 đi đăng ký đất đai. Ông K đã đi đăng ký đối với diện tích đất còn lại sau khi thu hồi. Năm 2006, ông K có tên trong sổ mục kê đất. Theo bản đồ chi tiết tỷ lệ 1/500, kèm theo là sổ mục kê đất được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xác nhận ngày 28-12-2006 thì diện tích đất ông K kê khai đăng ký là 181,6m2 thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ 165, loại đất nông nghiệp (BHK).
Như vậy, vào năm 1997, Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 có đăng ký đối với thửa đất số 63 trong sổ mục kê nhưng không quản lý đất trên thực tế. Nhiều hộ dân đã sử dụng thửa đất số 63 để cất nhà để ở nhưng không bị ai ngăn cản và cũng không bị cơ quan nào xử phạt về hành vi lấn chiếm đất công. Đến năm 2006, các hộ dân đã được nhà nước cho đăng ký đối với phần đất mà mình đang sử dụng và có tên trên hồ sơ địa chính.
- Theo quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2000 - 2010 được Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt tại quyết định số 571/QĐ-UBND ngày 20-01-2003 thuộc quy hoạch đất bằng chưa sử dụng. Như vậy, trong giai đoạn 2000 đến 2010, việc sử dụng đất của gia đình ông K được coi là khai hoang đất, phù hợp với quy định của pháp luật, được nhà nước khuyến khích và thực tế Uỷ ban nhân dân thị trấn L1 đã cho ông K đăng ký kê khai đất, có tên trên hồ sơ địa chính. Uỷ ban nhân dân huyện L cho rằng đất do nhà nước quản lý, bị người dân lấn chiếm là không phù hợp với thực tế sử dụng đất cũng như hồ sơ địa chính.
- Theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 16-8-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vàu Tàu, tài sản trên phần đất thu hồi gồm: 01 căn nhà 01 tầng diện tích 40m2, mái che tole nền xi măng, tường gạch, trụ cổng và một số tài sản khác. Hiện trạng đất và tài sản trên đất không có gì thay đổi so với thời điểm kiểm kê thu hồi đất. Uỷ ban nhân dân huyện L thu hồi đất của gia đình ông K nhưng không có bản vẽ thu hồi đất kèm theo mà chỉ căn cứ vào Bản đồ địa chính khu đất diện tích 18.085,0m2 công trình đường quy hoạch số 14, thị trấn L1, huyện L ngày 24-8-2018 của đơn vị sử dụng đất là Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện L là không đúng trình tự, thủ tục thu hồi đất.
Từ những chứng cứ nêu trên, có cơ sở xác định gia đình ông K sử dụng diện tích đất 184,7m2 không có các giấy tờ về đất đai theo quy định tại Điều 100 Luật Đất đai 2013 nhưng đất có nguồn gốc do ông S khai hoang từ năm 1985, gia đình ông K nhận chuyển nhượng và sử dụng ổn định từ năm 1994, trước khi có quy hoạch sử dụng đất vào năm 1996. Quá trình sử dụng đất của gia đình ông K không có tranh chấp, phù hợp quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2000 - 2010.
Diện tích đất 184,7m2 đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2013 nên đủ điều kiện bồi thường về đất theo Điều 75 Luật Đất đai 2013. Do đó, Uỷ ban nhân dân huyện L ban hành Quyết định 3974/QĐ-UBND, không bồi thường về đất cho ông K là trái pháp luật.
- Do Quyết định 3974/QĐ-UBND không đúng quy định pháp luật, nên các quyết định giải quyết khiếu nại số 1744/QĐ-UBND và 4357/QĐ-UBND bác yêu cầu khiếu nại của ông K cũng không đúng quy định pháp luật.
Từ những nhận định trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
[4] Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Người bị kiện có kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, bác yêu cầu kháng cáo của người bị kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người có kháng cáo phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, I. Bác yêu cầu kháng cáo của người bị kiện Uỷ ban nhân dân huyện L.
Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 112/2022/HC-ST ngày 29-9- 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Áp dụng Điều 75 và khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Nghĩa K:
- Hủy Quyết định số 3974/QĐ-UBND ngày 03-12-2020 của Ủy ban nhân dân huyện L.
- Hủy Quyết định số 1744/QĐ-UBND ngày 29-4-2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L.
- Hủy Quyết định số 4357/QĐ-UBND ngày 29-11-2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Buộc Ủy ban nhân dân huyện L thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho ông Hoàng Nghĩa K và bà Trần Thị L3 đối với diện tích đất 184,7m2 thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 165 tại thị trấn L1, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu theo quy định của pháp luật.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
II. Án phí hành chính phúc thẩm:
Uỷ ban nhân dân huyện L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000482 cùng ngày 18-10-2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu .
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai thuộc trường hợp bồi thường, hỗ trợ, tái định cư số 472/2023/HC-PT
Số hiệu: | 472/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 27/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về