TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 572/2023/HC-PT NGÀY 24/07/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BỒI THƯỜNG ĐẤT ĐAI
Ngày 24 tháng 7 năm 2023, tại Điểm cầu tổ chức phiên tòa trực tuyến gồm: Điểm cầu trung tâm - Phòng xét xử trực tuyến Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Điểm cầu thành phần - Phòng xét xử trực tuyến Tòa án nhân dân tỉnh B, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 123/2023/TLPT-HC ngày 08/3/2023, về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 121/2022/HC-ST ngày 15 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1587/2023/QĐ-PT ngày 05 tháng 7 năm 2023; giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Phạm Thị Ch, sinh năm 1953 (vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ 40, thôn Hoàng L, xã Kim L, huyện Châu Đ, tỉnh B.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn C sinh năm 1981 (Theo giấy ủy quyền ngày 26/5/2020) (có mặt tại điểm cầu trung tâm);
Địa chỉ: 21B2 đường 3/2, Phường 8, thành phố Vũng T, tỉnh B.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Châu Đ, tỉnh B;
Địa chỉ: Số 70, đường Trần Hưng D, thị trấn Ngãi G, huyện Châu Đ, tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Tấn B - Chủ tịch (xin vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Lê Văn D1 – Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Châu Đ (có mặt tại điểm cầu thành phần).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân tỉnh B;
Địa chỉ: Số 01, đường Phạm Văn Đ, phường Phước Tr, thành phố Bà Rịa, tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T – Chủ tịch (xin vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
+ Ông Phan Văn M – Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B (xin vắng mặt);
+ Bà Nguyễn Thị Thanh H – Chuyên viên Phòng Quản lý đất đai Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B (có mặt tại điểm cầu thành phần).
2. Ủy ban nhân dân xã Kim L, huyện Châu Đ, tỉnh B;
Địa chỉ: Tổ 19, thôn Hưng Long, xã Kim L, huyện Châu Đ, tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh T – Chủ tịch (xin vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Bùi Văn Th– Công chức địa chính nông nghiệp - xây dựng - môi trường xã Kim L (có mặt tại điểm cầu thành phần)
3. Bà Lê Thị S, sinh năm 1943 (chết ngày 27-7-2022);
Hàng thừa kế thứ nhất của bà S:
3.1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1964 (xin xét xử vắng mặt);
3.2. Bà Nguyễn Ngọc L1, sinh năm 1969 (xin xét xử vắng mặt);
3.3. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1971 (xin xét xử vắng mặt);
3.4. Ông Nguyễn Văn D1, sinh năm 1974 (xin xét xử vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Tổ 38, thôn Hoàng L, xã Kim L, huyện Châu Đ, tỉnh B.
3.5. Ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1974 (xin xét xử vắng mặt);
Địa chỉ: Số 210/6A, đường Trịnh Đình Tr, phường Phú Tr1, quận Tân P, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Bà Phạm Thị Ch là người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người khởi kiện trình bày:
Tại đơn khởi kiện ngày 10-06-2021, bà Phạm Thị Ch khởi kiện Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) huyện Châu Đ Văn bản số 1222/UBND ngày 14-4-2021 của UBND huyện Châu Đ về việc trả lời đơn của bà Phạm Thị Ch. Yêu cầu khởi kiện: hủy toàn bộ văn bản này và buộc UBND huyện Châu Đ phải bồi thường, hỗ trợ cho gia đình bà diện tích 1.009,4m2 đất thu hồi trong tổng diện tích đất thu hồi theo Quyết định số 2420/QĐ-UBND ngày 08-6-2021 của UBND huyện Châu Đ.
Lý do khởi kiện:
1. Nguồn gốc đất: Trước năm 1975 vợ chồng bà Ch khai phá được khoảng 9.176m2 đất tọa lạc tại thôn Hoàng L, xã Kim L, huyện Châu Đ, tỉnh B. Trong đó một phần đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ), diện tích còn lại khoảng 5.506m2 thuộc thửa đất số 135, tờ bản đồ số 18 tọa lạc tại tổ 38, thôn Hoàng L, huyện Châu Đ. Gia đình bà Ch vẫn canh tác liên tục đến nay. Năm 1980, một số người đã vận động gia đình bà cho một số hộ chôn cất nhờ nhưng sau đó xã không cho chôn vì ô nhiễm môi trường. Năm 2019 bà Ch đề nghị huyện Châu Đ cấp GCNQSDĐ diện tích đất không có mồ mả là 3.977m2 nhưng UBND huyện Châu Đ không đồng ý vì đất đã được hiến tặng;
2. Diện tích đất thu hồi để đầu tư xây dựng công trình đường B xã Kim L huyện Châu Đ là: 1.009,4m2, UBND huyện Châu Đ không lập phương án hỗ trợ, bồi thường.
Căn cứ khởi kiện:
Bà Ch cho rằng diện tích 1.009,4m2 đất thu hồi phải bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 75, khoản 4 Điều 82 và khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai. Bà Ch cho rằng bà đủ điều kiện được bồi thường.
Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, UBND huyện Châu Đ; Chủ tịch UBND huyện Châu Đ, tỉnh B trình bày:
Tại Văn bản số 2768 ngày 15-7-2021 (BL103-105), UBND huyện Châu Đ có ý kiến:
Nguồn gốc đất và quá trình sử dụng phần đất 1.009,4m2 bà Ch yêu cầu bồi thường: Phần diện tích 1.009,4m2 thuộc một phần trong tổng diện tích 5.103m2 thuộc thửa 135, tờ bản đồ địa chính số 18, xã Kim L là đất nghĩa địa và đất công do UBND xã Kim L hiện đang quản lý.
Nguồn gốc đất này nằm trong khu đất có tổng diện tích 9.176m2 mà gia đình ông Nguyễn Văn Phát (chồng bà Phạm Thị Ch) đã hiến cho UBND xã Ngãi G, huyện Châu Thành (cũ) để làm nghĩa địa từ năm 1980.
Quá trình sử dụng đất và việc thu hồi đất: Sau khi nhận tổng diện tích đất 9.176m2 đất từ hộ gia đình bà Ch, UBND xã Ngãi G sử dụng khoảng 5.688m2 đất phía trong làm nghĩa địa; còn lại khoảng 3.439m2 nằm sát quốc lộ 56 thì đến năm 1988 UBND xã Kim L xây dựng 01 nhà tình nghĩa và làm kho chứa xăng dầu, cửa hàng kinh doanh của Hợp tác xã. Sau khi Hợp tác xã giải thể thì toàn bộ diện tích 3.439m2 giao cho xã Kim L quản lý (phần diện tích lệch 9.176m2 và 5.688m2 + 3439m2 = 9.138m2 lệch nhau do sai số đo đạc mỗi thời kỳ khác nhau).
Ngày 23-7-2001 ông Nguyễn Văn Phát tiếp tục có đơn xin lại đất với nội dung xin lại 2.004m2 đất và cam kết không có tranh chấp với bất cứ ai. Ngày 31- 12-2001, UBND huyện Châu Đ ban hành Quyết định số 1037/QĐ-UBND về việc công nhận 2.004m2 (nằm trong diện tích 3.439m2 đất làm kho chứa xăng dầu và cửa hàng mua bán Hợp tác xã trước đây). Ngày 20-3-2002 UBND huyện Châu Đ cấp GCNQSDĐ số T 983206 đối với phần diện tích 2.004m2 thuộc thửa 277, tờ bản đồ số 18, mục đích sử dụng đất: đất trồng cây lâu năm cho ông Nguyễn Văn Phát.
Ngày 27-10-2017 bà Phạm Thị Ch có đơn yêu cầu được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích 5.103m2. Tại Văn bản số 3435/UBND-TNMT ngày 29-11-2017 UBND huyện Châu Đ đã trả lời bà Ch không có cơ sở giải quyết theo yêu cầu của bà Ch vì đất đã hiến tặng và Nhà nước đã quản lý. Bà Ch đã khiếu nại lần đầu nhưng bị Chủ tịch UBND huyện Châu Đ bác khiếu nại. Bà Ch khiếu nại lần 2 đến Chủ tịch UBND tỉnh B nhưng sau đó đã rút khiếu nại nên Chủ tịch tỉnh đã ra quyết định đình chỉ giải quyết khiếu nại số 963/QĐ- UBND ngày 02-4-2019. Ý kiến UBND huyện Châu Đ không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Ch.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ý kiến của đại diện UBND xã Kim L: Ngày 03-08-2021 UBND xã Kim L (BL156-158) có ý kiến:
Trước năm 1980, gia đình ông Nguyễn Văn Phát và gia đình ông Nguyễn Văn Ký (02 anh em) khai phá đất tọa lạc tại xã Ngãi G (nay mới là xã Kim L), huyện Châu Thành (nay mới là huyện Châu Đ), tỉnh B diện tích là khoảng trên 20.000m2 đất. Năm 1980, hai gia đình ông Phát và ông Ký hiến khoảng 10.000m2 đất cho xã Ngãi G làm nghĩa địa ấp Kim L. Năm 2001, ông Nguyễn Văn Phát có làm đơn xin cấp diện tích 2.004m2 đất diện tích đất tiếp giáp quốc lộ 56. Hiện nay, phần đất được cấp giấy ông Phát đã chia cho các con và đã sang nhượng cho một số người một số lô đất. Riêng phần đất còn lại khoảng 5.927m2 chưa được cấp GCNQSDĐ. Đối với phần đất này có 824m2 đã được UBND xã Kim L làm nhà tình nghĩa cho ông Hai Xá (hiện nay ông Hai Xá đã chết (không rõ năm) và đã trả nhà đất cho UBND xã Kim L). Hiện nay phần nhà đất 824m2 đã được UBND xã Kim L tiếp nhận lại và làm nhà mẫu giáo mầm non. Đến năm 2009, Trường mầm non có cơ sở mới nên đã bàn giao lại cho UBND xã Kim L quản lý. Sau đó, UBND xã Kim L tạm giao cho Đoàn thanh niên xã cho các đối tượng lầm lỡ sử dụng mặt bằng buôn bán, làm ăn để cải thiện cuộc sống. Phần 5.103m2 tọa lạc tại thôn Hoàng L, xã Kim L: Phần đất này năm 1980 xã Ngãi G làm nghĩa địa ấp Kim L có khoảng 100 ngôi mộ. Đến năm 1991, do mật độ dân cư đông đúc nên xã quy hoạch vị trí nghĩa địa mới và thông báo cho một số hộ dân di dời. Năm 2019 còn khoảng 35 ngôi mộ. Hiện nay có 05 ngôi mộ và một phần đất làm đường. Trên phần đất này, có 02 hộ dân là bà Phạm Thị Ch (vợ ông Phát) và hộ bà Lê Thị S (vợ ông Ký) thu hoạch 1 số cây trồng tạm trên đất như chuối, mít, điều, bơ, tiêu. Trong phần đất 5.103m2 đất này có phần đất đã được UBND huyện Châu Đ thu hồi để làm đường. Trước đây, Đảng ủy UBND xã Kim L đã mời những người cao niên để họp thống nhất phần đất này. Cuộc họp đã thống nhất không đồng ý trả lại phần đất này cho gia đình ông Nguyễn Văn Phát và đề nghị quy hoạch phần đất này làm đất công phục vụ địa phương. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Ch: UBND xã không đồng ý Nhà nước bồi thường đất cho bà Ch.
+ Ý kiến của đại diện UBND tỉnh B:
Nguồn gốc đất: Phần diện tích 1.009,4m2 liên quan đến nội dung vụ án thuộc một phần trong tổng diện tích 5.103m2 của thửa đất 135, tờ bản đồ địa chính số 18 xã Kim L, huyện Châu Đ, Hồ sơ địa chính qua các thời kỳ đều thể hiện là đất nghĩa địa do xã Kim L quản lý. Khu đất này là một phần trong tổng diện tích đất 9.176m2 đất do gia đình ông Phát khai phá và hiến cho Nhà nước để làm nghĩa địa từ năm 1980. Việc hiến đất của gia đình ông Phát thể hiện:
Đơn ghi ngày 21-6-1992 của các hộ dân thường trú tại thôn Thạch Long, xã Kim L;
Đơn ghi ngày 06-11-2000 của bà Lê Thị S (vợ của ông Nguyễn Văn Ký, là chị dâu của ông Phát);
Đơn ghi ngày 01-4-2009 của bà Phạm Thị Ch;
Đơn ghi ngày 06-12-2012 của bà Phạm Thị Ch;
Báo cáo số 58/BC-UBND ngày 16-4-2018 của UBND xã Kim L.
Việc hiến đất không làm văn bản nhưng thực tế có hiến đất và UBND xã Kim L đã nhận đất làm nghĩa địa. Trên cơ sở báo cáo của UBND huyện Châu Đ và UBND xã Kim L, UBND tỉnh B đã phê duyệt Kế hoạch quản lý, khai thác đất công và giao đất công trên cho UBND xã Kim L quản lý.
Hiện nay, theo Quyết định số 3693/QĐ-UBND ngày 31-12-2019 của UBND tỉnh B về việc giao các khu đất công trên địa bàn tỉnh B cho UBND huyện Châu Đ quản lý (BL83-85). UBND huyện Châu Đ giao cho UBND xã Kim L quản lý và là đất công thổ. Việc UBND huyện Châu Đ không bồi thường là đúng quy định pháp luật.
+ Ý kiến của bà Lê Thị S: Tại Văn bản ngày 25/7/2022 bà S trình bày: Bà S là vợ ông Nguyễn Văn Ký (sinh năm 1943, chết năm 1989) và là con dâu ông Nguyễn Văn Pháo (sinh năm 1914, chết năm 1961) và bà Nguyễn Thị Sử (sinh năm 1914, chết năm 1983). Nguồn gốc đất: Năm 1956 cha mẹ chồng bà có khai phá diện tích đất là 4ha (40.000m2) đất có ranh giới: Phía Đông giáp đất gia đình ông Ba; Phía Nam giáp gia đình ông Chưởng; Phía Bắc giáp đồn điền cao su Xà Bang; phía Tây giáp lộ 2 (hiện nay là quốc lộ 56). Gia đình canh tác trồng cây ăn trái và hoa màu đến năm 1964 thì Mỹ lấy đất làm đồn bốt và dồn dân về lập ấp chiến lược. Đến năm 1977 thì gia đình trở về đất canh tác lại. Mẹ chồng bà có chia cho vợ chồng bà 20.000m2 đất giáp với lộ 2 (nay là quốc lộ 56) xã Kim L, huyện Châu Đ, tỉnh B và chia cho em chồng bà là ông Nguyễn Văn Phát phần đất phía trong 20.000m2 giáp phần đất của gia đình bà. Đến năm 1980 chồng bà là ông Nguyễn Văn Ký có hiến cho UBND xã Kim L 01ha (10.000 m2) để làm nghĩa địa. Đến năm 1988 thì dân cư ở quanh nghĩa địa nên UBND xã Kim L không cho chôn nữa. Trong thời gian đó, gia đình bà vẫn canh tác trên đất chưa chôn (khoảng 3.500m2). Năm 2020, UBND xã Kim L thu hồi đất trên để làm đường. Bà S nhất trí ý kiến của chồng bà là ông Ký và không có ý kiến gì yêu cầu bồi thường.
Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà S gồm: Bà Nguyễn Thị L; ông Nguyễn Ngọc L1; bà Nguyễn Thị H; ông Nguyễn Văn D1 và ông Nguyễn Văn T2 thống nhất lời khai trên của bà S và không có yêu cầu gì.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 121/2022/HC-ST ngày 15-11-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B đã tuyên xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 3, 4 Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính; Điều 74; Điều 75 Luật Đất đai; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.
Tuyên xử:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Ch yêu cầu hủy Văn bản số 1222/UBND ngày 14-4-2021 của UBND huyện Châu Đ về việc trả lời đơn của bà Phạm Thị Ch và bác yêu cầu của bà Ch đề nghị buộc UBND huyện Châu Đ bồi thường 1.009,4m2 đất là một phần trong diện tích đất bị thu hồi theo Quyết định số 2420/QĐ-UBND ngày 08-6-2021 của Ủy ban nhân dân huyện Châu Đ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28 tháng 11 năm 2022 bà Phạm Thị Ch làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn C làm đại diện không thay đổi, bổ sung, không rút đơn khởi kiện. Người bị kiện xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa nên không thể hiện ý kiến.
Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bà Ch đề nghị hủy án sơ thẩm vì cho rằng cấp sơ thẩm đã vi phạm thủ tục tố tụng không xem xét việc khiếu nại trả lại đơn khởi kiện bổ sung.
Trong phần tranh luận, các đương sự trình bày như sau:
- Đại diện người khởi kiện trình bày: Diện tích 1.009,4m2 đất thu hồi phải bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 75, khoản 4 Điều 82 và khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai. Bà Ch cho rằng bà đủ điều kiện được bồi thường. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy Văn bản số 1222/UBND ngày 14-4-2021 của UBND huyện Châu Đ về việc trả lời đơn của bà Phạm Thị Ch và bác yêu cầu của bà Ch đề nghị buộc UBND huyện Châu Đ bồi thường 1.009,4m2 đất là một phần trong diện tích đất bị thu hồi theo Quyết định số 2420/QĐ-UBND ngày 08-6-2021 của UBND huyện Châu Đ.
- Ủy ban nhân dân huyện Châu Đ: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Ủy ban nhân dân tỉnh B: Quyết định số 3693/QĐ- UBND ngày 31-12-2019 của UBND tỉnh B về việc giao các khu đất công trên địa bàn tỉnh B cho UBND huyện Châu Đ quản lý của Chủ tịch UBND tỉnh B được ban hành đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Ủy ban nhân dân xã Kim L: Đa số người dân đều không đồng ý trả lại đất. Án sơ thẩm xử là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Xét thấy Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, các thành viên Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ và chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Về nội dung kháng cáo: Xét, việc ông Phát hiến đất là có thật, UBND xã Kim L đã quả lý trong sổ mục kê và UBND tỉnh B đã giao cho. Xét kháng cáo bổ sung: Đây là quyết định tập thể nên Thẩm phán ra quyết định trả lại đơn là đúng, nhưng xét cấp sơ thẩm chưa giải quyết khiếu nại là có thiếu sót nhưng không làm ảnh hưởng nghiêm trọng nên không cần hủy án. Bản án sơ thẩm tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của người khởi kiện làm trong thời hạn, có nội dung, hình thức phù hợp và đã nộp tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm, nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về thủ tục tố tụng: UBND huyện Châu Đ, tỉnh B tham gia tố tụng với tư cách là người bị kiện. Tuy nhiên, người bị kiện có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện, theo quy định tại khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính.
[3] Xét kháng cáo của người người khởi kiện, nhận thấy:
[3.1] Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền ban hành các quyết định, văn bản hành chính: Bản án sơ thẩm xác định Văn bản số 1222/UBND ngày 14-4-2021 của UBND huyện Châu Đ và quyết định hành chính liên quan là Quyết định số 3693/QĐ-UBND ngày 31-12-2019 của UBND tỉnh B về việc giao các khu đất công trên địa bàn tỉnh B cho UBND huyện Châu Đ quản lý của Chủ tịch UBND tỉnh B được ban hành đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền là có căn cứ, phù hợp với các quy định tại các Điều 74; Điều 75 Luật Đất đai.
[3.2] Về nội dung:
Nguồn gốc 1.009,4m2 đất UBND huyện Châu Đ thu hồi của UBND xã Kim L đang quản lý. Nguồn gốc diện tích 9.716m2 đất tọa lạc tại xã Kim L, huyện Châu Đ hiện nay là đất của gia tộc ông Nguyễn Văn Phát (chồng bà Ch) khai phá. Năm 1980 gia đình ông Phát đã hiến toàn bộ khu đất này cho Nhà nước để làm nghĩa địa. Tại các văn bản của bà S ngày 06-11-2000, đơn xin lại đất của bà Ch ngày 01-4-2009 cũng thừa nhận đã hiến 9.176m2 đất cho UBND xã Kim L làm nghĩa địa và các công trình khác. Tại đơn ghi ngày 06-12-2012 bà Ch viết đơn gửi UBND tỉnh B cũng có trình bày nội dung là trước năm 1985 gia đình bà Ch có cho dân 1ha để làm nghĩa địa. Tại bản tự khai ngày 25-7-2022 của bà Lê Thị S cũng đã thừa nhận việc hiến đất của gia tộc bà Ch (BL171). Mặc dù UBND xã Kim L không lập biên bản nhận hiến đất nhưng việc giao hiến đất đã xảy ra trên thực tế và sau này bà Ch đã làm đơn xin lại 2.000,4m2 đất. UBND huyện Châu Đ đã chấp thuận và đã cấp GCNQSDĐ này cho bà Ch với cam kết không khiếu nại. Sau khi được cấp đất, Bà Ch vẫn tiếp tục khiếu nại đòi thêm đất nhưng đã rút đơn khiếu nại và đã hết thời kiệu khởi kiện các quyết định không cấp đất cho bà Ch.
Phần diện tích 5.103m2 đất tọa lạc tại thôn Hoàng L, xã Kim L là một phần trong tổng diện tích đất 9.176m2 đất trên. Phần đất này năm 1980 xã Ngãi G làm nghĩa địa ấp Kim L có khoảng 100 ngôi mộ. Đến năm 1991, do mật độ dân cư đông đúc nên xã quy hoạch vị trí nghĩa địa mới và thông báo cho một số hộ dân di dời. Năm 2019 còn khoảng 35 ngôi mộ. Hiện nay có 05 ngôi mộ. Trên phần đất này, có 02 hộ dân là bà Phạm Thị Ch (vợ ông Phát) và hộ bà Lê Thị S (vợ ông Ký) thu hoạch 1 số cây trồng tạm trên đất như chuối, mít, điều, bơ, tiêu. Trong phần đất 5.103m2 đất này có phần đất đã được UBND huyện Châu Đ thu hồi để làm đường có diện tích là 1.009,4m2 đất theo Quyết định số 2420/QĐ- UBND ngày 08-6-2021 của UBND huyện Châu Đ về việc thu hồi 15.024,7m2 đất do UBND xã Kim L quản lý để đầu tư xây dựng dự án đường B xã Kim L, huyện Châu Đ. Trước đây, trước khi UBND xã đề xuất đưa vào diện tích đất công thì Đảng ủy UBND xã Kim L đã mời những người cao niên để họp thống nhất phần đất này. Cuộc họp đã thống nhất không đồng ý trả lại phần đất này cho gia đình ông Nguyễn Văn Phát vì gia đình ông Phát đã hiến đất cho Nhà nước và đề nghị quy hoạch phần đất này làm đất công phục vụ địa phương.
Xét thấy, tại bản tự khai của bà S ngày 25-7-2022 (BL171) thể hiện năm 1980 ông Ký là chồng bà có hiến 01ha cho xã Kim L để làm nghĩa địa chôn cất cho các hộ dân xung quanh. Tại các đơn xin lại đất của bà Ch cũng thể hiện gia tộc bà Ch hiến khoảng 10.000m2 đất tại xã Kim L để làm nghĩa địa. Thực tế thì UBND xã Kim L cũng đã sử dụng diện tích đất 1.009,4m2 để làm nghĩa địa. Sau đó, qua rà soát quỹ đất công UBND tỉnh B đã đưa diện tích đất này vào quỹ đất công theo Quyết định số 3693/QĐ-UBND ngày 31-12-2019 và giao cho UBND xã Kim L quản lý sử dụng là phù hợp pháp luật.
Hiện nay UBND tỉnh B đã giao cho UBND huyện Châu Đ quản lý 9.176m2 đất theo Quyết định số 3693/QĐ-UBND ngày 31-12-2019 của UBND tỉnh B về việc giao các khu đất công trên địa bàn tỉnh B cho địa phương quản lý (BL83-85). Trong đó, có diện tích 1.009,4m2 đất bị thu hồi để làm đường. UBND huyện Châu Đ đã giao cho UBND xã Kim L quản lý khai thác, sử dụng. Như vậy, đây là đất công nên không có căn cứ buộc UBND huyện Châu Đ bồi thường cho bà Ch.
Với những phân tích trên thì, Văn bản số 1222/UBND-VP ngày 14-4- 2021 của UBND huyện Châu Đ trả lời bà Ch về việc UBND huyện Châu Đ thu hồi phần đất 1.009,4m2 đất thuộc thửa 135, tờ bản đồ số 18 có nguồn gốc đất là của gia tộc ông Phát đã hiến cho Nhà nước nên không đủ điều kiện bồi thường là có căn cứ. Đồng thời xét căn cứ Điều 74; Điều 75 Luật Đất đai thì gia đình bà Phạm Thị Ch cũng không đủ điều kiện được bồi thường đất.
[4] Từ những phân tích nêu trên, nhận thấy bản án sơ thẩm tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện hợp pháp cho người khởi kiện không xuất trình được chứng cứ nào mới. Do đó, kháng cáo của người khởi kiện kiện là không có căn cứ để chấp nhận. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.
[5] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do bà Phạm Thị Ch là người cao tuổi nên được miễn án phí.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện bà Phạm Thị Ch. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 121/2022/HC-ST ngày 15-11-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh B.
Áp dụng các Điều 74; Điều 75 Luật Đất đai; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1/ Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Ch yêu cầu hủy Văn bản số 1222/UBND ngày 14-4-2021 của UBND huyện Châu Đ về việc trả lời đơn của bà Phạm Thị Ch và bác yêu cầu của bà Ch đề nghị buộc UBND huyện Châu Đ bồi thường 1.009,4m2 đất là một phần trong diện tích đất bị thu hồi theo Quyết định số 2420/QĐ-UBND ngày 08-6-2021 của Ủy ban nhân dân huyện Châu Đ.
2/ Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Phạm Thị Ch là người cao tuổi nên được miễn án phí.
3/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường đất đai số 572/2023/HC-PT
Số hiệu: | 572/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 24/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về