Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trả lời đơn và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 256/2021/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 256/2021/HC-PT NGÀY 01/12/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRẢ LỜI ĐƠN VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào ngày 01 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 146/2021/TLPT-HC ngày 19 tháng 02 năm 2021 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về việc trả lời đơn và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.Do bản án hành chính sơ thẩm số 23/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 375/2021/QĐ-PT ngày 12 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị H. Địa chỉ: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. (có mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Luật sư Đỗ Thành N, Văn phòng luật sư N. Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng. (có mặt)  

Người bị kiện:

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. (vắng mặt)  

2. Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. (vắng mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đặng Đình H. Địa chỉ: 16 H Vương, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. (có mặt)

2. Công ty cổ phần T. Địa chỉ: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn K, chức vụ Giám đốc Công ty cổ phần T N.

3. Ông Nguyễn Lam G (chết), bà Võ Thị Tuyết V. Địa chỉ: 18 H Vương, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. (vắng mặt)

Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Lam G: (vắng mặt)

- Bà Võ Thị Tuyết V;

- Chị Nguyễn Võ Nam G;

- Chị Nguyễn Võ Kim D;

- Chị Nguyễn Võ Nam H;

Cùng địa chỉ: 18 H Vương, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.

Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được xác định như sau:

Tại đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện trình bày:

Năm 1990, vợ chồng ông H, bà H có mua lại ngôi nhà số 4B (nay là số nhà 16, đường H Vương, phường L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa), tổng diện tích là 257,12m2 thuộc sở hữu của bà Đặng Thị Đ và con trai là Nguyễn Văn H. Vợ chồng ông H, bà H cùng mẹ con bà Đ đã ký Giấy bán nhà ngày 19/05/1990 và được UBND phường L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa chứng nhận ngày 21/05/1990, ghi rõ diện tích lô đất là 257,12m2. Trong hồ sơ bàn giao nhà và đất thời điểm đó bao gồm cả Giấy, đăng ký trước bạ số 46/90-TB/ND/MB ngày 26/02/1990 và Sơ đồ mặt bằng thể hiện chi tiết diện tích lô đất trên rất rõ ràng. Sau đó, ông H, bà H được cấp Giấy đăng ký trước bạ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất ở thành thị số 415/90/TB/ND/MB do Sở xây dựng và công trình đô thị tỉnh Khánh Hòa cấp ngày 06/10/1990 cho vợ chồng ông Đình H và bà Nguyễn Thị H ghi nhận “Cấu trúc ngôi nhà: ....Diện tích xây cất 47,14m2, diện tích đất chiếm 239,19m2. Diện tích sử dụng chính 35,52m2, diện tích phụ 9,90m2...”. Lý do có sự thay đổi về diện tích ở thời điểm này là khi sang tên đã trừ lộ giới, dự kiến trừ 5,5m lộ giới, nhưng trên thực tế chỉ trừ đường 3,l m (theo biên bản xác nhận khối lượng giải tỏa công trình ngày 05 tháng 08 năm 1992 và theo chiều dài hiện tại của lô đất so với sơ đồ MB). Ngày 08/7/2015, gia đình bà H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số vào sổ: CH 02333/22363, trên GCNQSDĐ ghi nhận diện tích là 247m2 do thời điểm này đang có dự án Vlap, sau khi đo và cấp lại sổ đỏ thì diện tích thành 247m2. Gia đình ông H, bà H phải đóng tiền tăng thêm 7,8m2 diện tích so với Giấy đăng ký trước bạ số 415/90/TB/ND/MB. Sau đó, bà H đóng 800.000đ cho Văn phòng đăng ký đất đai để yêu cầu đo đạc, kiểm tra lại diện tích nhưng họ chỉ tới xem, không đo lại hiện trạng rồi bảo sổ đo đúng rồi, yêu cầu bà H ký biên bản, bà H không đồng ý nên họ đi luôn. Sau đó gia đình bà H có mời vài công ty đo lại nhưng không bên nào dám nói sổ sai cũng không dám ký hồ sơ đo đạc từ đó đến nay, vì thế không có số liệu để xác thực.

Như vậy, rõ ràng khi có dự án Vlap cấp GCNQSD đất trả về đúng đất của nhà bà H vẫn còn thiếu gần 1m nhưng lại yêu cầu gia đình đóng tiền tăng diện tích là vì sao? Thời điểm tính trừ lộ giới, thực tế chỉ vào có 3,1 m cơ quan có thẩm quyền sai, sao lại bắt gia đình bà H chịu phần thiệt hại. Tại giấy bán nhà và Sơ đồ mặt bằng gốc mang tên bà Đ và anh H có thể hiện căn nhà cấp 4, phần diện tích phụ, toàn bộ căn nhà và phần tường bao của phần diện tích phụ này đến hiện tại vẫn còn nguyên vẹn, nhà bà H đã không đập bỏ và xây mới. Trên thực tế, diện tích hiện trạng của căn nhà lớn hơn so với trong sơ đồ mặt bằng cấp năm 1990 nhưng khi cấp sổ theo VLAP diện tích cấp đổi còn thấp hơn diện tích thể hiện trong sơ đồ mặt bằng cụ thể: Trên sơ đồ diện tích căn nhà hình chữ nhật vuông vức với chiều ngang là 4,8m, đổi Vlap chỉ còn 4,6m trong khi hiện trạng thực tế căn nhà hình thang khúc đầu 4m85 và khúc đuôi nở ra 5m15 (chưa tính miếng đan bên ngoài đã bị hàng xóm đập). Trên giấy bán nhà và sơ đồ mặt bằng cấp năm 1990, diện tích khoảng đất trống phía sau có tường bao, hiện trạng 4,7m, sơ đồ mặt bằng cũ là 4,5m, đổi VLAP còn 4,2m. Tổng hiện trạng của thửa đất tính luôn tường bao xây từ lúc mua cho tới nay: Chiều ngang 3m thì thực tế gần tới 3m26, 4m5 là 4m7, 4m8 là 5m15. Như vậy so với giấy tờ năm xưa hiện trạng thay đổi, đáng lẽ nhà bà H phải được cấp đổi theo hiện trạng sử dụng vì đã công khai sử dụng liên tục gần 30 năm nay, hoàn toàn không xây mới, thậm chí căn nhà cấp 4 ở giữa và một phần tường bao hiện tại cũng không phải do vợ chồng ông H, bà H xây cất và trước đó cũng không có tranh chấp gì với hai người hàng xóm quá cố là ông Lê Mạnh B và ông Nguyễn Xuân T. Trước đó ngày 14/8/2002, vợ chồng bà H cùng ông Nguyễn Lam G, là chủ sở hữu trước của nhà 4C đường H Vương, giáp cạnh nhà tôi đã có Giấy thỏa thuận (được chứng thực bởi địa chính phường và chủ tịch UBND phường năm đó) về việc nhà 4C xây nhà có xây lấn nửa bức tường phía sau dài 18,7m thuộc quyền sở hữu của nhà bà H. Ông H, bà H đã thỏa thuận nửa bức tường phía sau do nhà 4C xây lấn sẽ được giữ nguyên đổi lại bức tường chung phía trước dài 16,5m sẽ thuộc quyền sở hữu của nhà 4B là nhà bà H. Nhưng cuối năm 2016, người thừa kế hợp pháp của ông G là bà Võ Thị Tuyết V, nhà 4C đã tiến hành sửa chữa nhà, không những không trả bức tường chung phía trước cho nhà ông H, bà H như đã cam kết, bà V còn cho đắp thêm một bức tường khác áp sát nửa bức tường năm xưa đã xây lấn, việc đắp thêm này đã khiến cho nhà ông H, bà H phía trên không từ gãy hai khúc (năm 2004) hiện nay bị gãy thành 4 khúc đeo lên con lươn mái nhà cấp 4 của ông H, bà H đắp dày thêm) trong khi theo sơ đồ mặt bằng năm 1990, nhà đất của ông H, bà H giáp ranh với nhà và vật lý một đường thẳng và toàn bộ tường bao, con lươn mái nhà bên dưới mà chúng tôi xem năm 1991 cũng được xây thẳng theo sơ đồ năm 1990.

Từ những nội dung đã trình bày trên, thể hiện việc UBND thành phố N cấp các GCNSDĐ cho 3 hộ tại địa chỉ 14, 16, 18 H Vương, thành phố N không đúng với diện tích thực tế, bà H không đồng ý với nội dung trả lời đơn tại Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018 và Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N. Vì vậy, bà H yêu cầu hủy Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018, Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N, các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CA 213051, số vào sổ: CH02333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N cấp cho ông Đặng Đình H, bà Nguyễn Thị H; sổ BL 274624 ngày 04/6/2013 do UBND thành phố N cấp cho ông Đỗ Xuân Hoàng; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cấp cho ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V.

Quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện trình bày: Đối với yêu cầu của người khởi kiện về việc hủy Văn bản số 4726/UBND- QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N, việc bà Nguyễn Thị H phản ánh nhà số 18 (số 4C cũ) đường H Vương, phường L, thành phố N lấn chiếm khoảng không của gia đình Bà, đã được UBND thành phố N xem xét, giải quyết tại văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 về việc trả lời đơn cho bà Nguyễn Thị H. Như vậy, nội dung đơn nêu trên của bà Nguyễn Thị H đã được UBND thành phố N xem xét, giải quyết theo quy định.

Đối với nội dung bà Nguyễn Thị H phản ánh công trình Khách sạn Libra tại số 14 (sổ 04 cũ) đường H Vương, phường L, thành phố N (giáp ranh nhà bà) xây dựng lấn sang khoảng không gian của gia đình bà. Công trình Khách sạn Libra tại sổ 04 đường H Vương, phường L do Công ty cổ phần T - làm chủ đầu tư xây dựng theo Giấy phép xây dựng sổ 178/GPXD-SXD ngày 11/12/2017 do Sở Xây dựng cấp. Quy mô: 27 tầng (bao gồm tầng kỹ thuật + tầng mái) + 01 tầng hầm. Bà Nguyễn Thị H phản ánh Công trình Dự án Khách sạn Libra lấn chiếm không gian của gia đình Bà đã được Sở Xây dựng tỉnh Khánh Hòa giải quyết tại Văn bản số 1747/SXD-TTra ngày 09/5/2018 cho bà Nguyễn Thị H. Như vậy, nội dung nêu trên của bà Nguyễn Thị H đã được giải quyết theo quy định.

Đối với yêu cầu hủy Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018 của UBND thành phố N và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CA 213051, số vào sổ: CH02333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N cấp cho ông Đặng Đình H, bà Nguyễn Thị H, vì tọa độ xác định tại Giấy chứng nhận nêu trên sai số với hiện trạng mà gia đình bà đang sử dụng: Qua kiểm tra hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này thì thấy nhà đất tại số 16 (số 4B cũ) H Vương, phường L của ông Đặng Đình H và bà Nguyễn Thị H đã được Sở Xây Dựng và Công Trình Đô Thị tỉnh Phú Khánh cấp Giấy đăng ký trước bạ số 415/90/TB/NĐ/MB ngày 6/10/1990 (kèm theo sơ đồ mặt bằng). Năm 2015, ông Đặng Đình H và bà Nguyễn Thị H đăng ký đơn xin cấp Giấy chứng nhận lần đầu (theo dự án Vlap) đối với nhà đất trên thuộc thửa đất số 17, tờ bản đồ số 17 (theo Trích lục bản đồ địa chính phường L được Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành, phố N thẩm định ngày 01/4/2015), với diện tích 247m2. Hồ sơ đăng ký cấp Giấy chứng nhận thửa đất trên của ông H, bà H được UBND phường L tiến hành niêm yết công khai (trong thời gian 15 ngày kể từ ngày 24/3/2014 đến ngày 07/4/2014) nhưng không bị khiếu nại, tranh chấp. Theo đó, UBND thành phố N đã xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH023 33/22363 ngày 08/7/2015 tại Mục III, trang 3 của Giấy chứng nhận về Sơ đồ thửa đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, thửa đất được trích lục từ bản đồ địa chính phường L, với diện tích 247m2. Hiện nay, bà Nguyễn Thị H cho rằng ranh giới, vị trí, kích thước cạnh thửa đất theo tọa độ VN-2000 thể hiện tại sơ đồ thửa đất trang 3 của Giấy chứng nhận số CH02333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N đã cấp cho ông H, bà H không đúng với hiện trạng mà gia đình bà đang sử dụng tại nhà đất trên và đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận cho gia đình bà. Ngày 17/10/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai N phối hợp với UBND phường L tiến hành kiểm tra hiện trạng thửa đất của bà Nguyễn Thị H tại địa chỉ số 16 (số 04B cũ) H Vương và thửa đất tại số 04 H Vương của Công ty cổ phần T, đã xác định: Ranh giới theo tọa độ VN - 2000 của hai thửa đất trên Giấy chứng nhận của các bên không có sự trùng lặp về ranh giới. Như vậy, việc cấp Giấy chứng nhận của UBND thành phố N cho bà Nguyễn Thị H và Công ty cổ phần T là đúng quy định và không có sự chồng lấn ranh giới. Do đó, việc bà Nguyễn Thị H đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận theo hiện trạng sử dụng đất của bà là không có cơ sở xem xét. Như vậy qua kiểm tra hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND thành phố N ban hành Văn bản số 4499/UBND- TNMT ngày 04/7/2018 trả lời đơn cho bà Nguyễn Thị H là đúng quy định pháp luật.

Đối với yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất tại nhà số 18 (04C cũ) và 14 (04 cũ) H Vương, phường L, thành phố N: Nhà đất tại số 18 (04C cũ) H Vương, phường L, thành phố N được UBND tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất ở số 147/2002 ngày 12/6/2002 cho bà Trịnh Thị Ngọc L với diện tích 295m2. Ngày 29/7/2002 ông Nguyễn Lam G mua lại nhà đất nêu trên của bà Trịnh Thị Ngọc L, được UBND tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất ở số 1498/2002 ngày 29/7/2002 sang tên ông Nguyễn Lam G.

Ngày 10/3/2004, ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V được UBND tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sở hữu đất ở số 519/2004 với diện tích 295m2. Nhà đất tại số 14 (04 cũ) H Vương, phường L, thành phố N của ông Đỗ Thanh T và bà Lê Thị Kim L đã được Sở Xây dựng và Công trình đô thị tỉnh Phú Khánh cấp Giấy đăng ký trước bạ số 355/TB/NĐ/MB ngày 12/9/1986 (kèm sơ đồ mặt bằng) với diện tích 701,46m2. Năm 2006, ông Đỗ Thanh T và bà Lê Thị Kim L được UBND thành phố N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H12293 ngày 30/10/2006. Ngày 04/11/2008, ông Đỗ Xuân Hoàng nhận tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo hợp đồng số 78 tại UBND phường L (được Chi nhánh Vàn phòng Đăng ký đất đai N chỉnh lý sang tên ông Đỗ Xuân H vào ngày 19/11/2008). Năm 2013, ông Đỗ Xuân H tiến hành làm thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo dự án Vlap) đối với nhà đất trên và đã được UBND thành phố N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CHO1160/22363 ngày 04/6/2013. Như vậy, trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đỗ Xuân Hoàng, ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V đã thực hiện theo quy định, người bị kiện không đồng ý với yêu cầu của người khởi kiện.

Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 26/4/2019, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần T trình bày:

Công ty cổ phần T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, theo đó bà Nguyễn Thị H (người khởi kiện) có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại phần đất Công ty chúng tôi đang sử dụng tại số 14 (số 4 cũ) đường H Vương, phường L, tp. N, tỉnh Khánh Hòa. Công ty nhận thấy rằng việc bà Nguyễn Thị H yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất Công ty đang sử dụng tại số 14 (số 4 cũ) đường H Vương, L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa là không có cơ sở, nên Công ty cổ phần T phản đối yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện đối với phần nội dung khởi kiện liên quan đến Công ty cổ phần T. Kính đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Lam G là bà Võ Thị Tuyết V trình bày:

Bà không đồng ý yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với nhà đất tại số 18 (4C cũ) đường H Vương, phường L, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, vì gia đình bà được UBND tỉnh Khánh Hòa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 5110125 ngày 10/03/2004 và sinh sống ổn định tại nhà đất nêu trên từ năm 1984 đến nay.

Từ những nội dung đã được xác định nêu trên, tại Bản án hành chính sơ thẩm số 23/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:

Căn cứ khoản 4 Điều 32, Điều 157, Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 206 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện cùa bà Nguyễn Thị H về việc yêu cầu hủy: Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018 của UBND thành phố N, Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 của UBND thành phố N, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CA 213051, số vào sổ: CH02333/22363 ngay 08/7/2015 do UBND thành phố N cấp cho ông Đặng Đình H, bà Nguyễn Thị H; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 274624 ngày 04/6/2013 do UBND thành phố N cấp cho ông Đỗ Xuân Hoàng; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cấp cho ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V.

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về phần án phí, quyền kháng cáo, thi hành án theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 07/10/2020 người khởi kiện bà Nguyễn Thị H kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số 23/2020/HC-ST ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Lý do kháng cáo bà H cho rằng quá trình giải quyết vụ án đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, quá trình thu thập chứng cứ không tuân theo quy định của Luật tố tụng hành chính, việc đo vẽ nhiều lần thể hiện số liệu đều khác nhau, phản ánh không đúng hiện trạng cũng như thiếu minh bạch, nhận định của Tòa án về diện tích mâu thuẫn với diện tích trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, bà H kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm bà H yêu cầu hủy bản án sơ thẩm.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Nguyễn Thị H: Luật sư Đỗ Thành Nhân cho rằng bản thân ông đã tham gia bảo vệ cho bà H ở giai đoạn sơ thẩm, ông Nhân đã nghiên cứu hồ sơ và có sao chụp hồ sơ (chưa đánh số bút lục), trước khi xét xử phúc thẩm luật sư đã nghiên cứu lại hồ sơ vụ án tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thì phát hiện một số tài liệu chứng cứ do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập, xác minh không có trong hồ sơ vụ án, cụ thể:

- Đơn đề nghị lần 1, ngày 26/6/2020, Bản vẽ lần 1, DT: 253,8m2 (tăng 6,8 m2 nhưng do chồng lấn). Bản vẽ và sơ đồ đã đăng ký ngày 16/6/2020 không có trong hồ sơ vụ án - Đơn đề nghị lần 2, ngày 10/7/2020, Bản vẽ lần 2, DT: 259,0m2 (tăng 12 m2 nhưng do chồng lấn).

- Đơn đề nghị lần 3, ngày 17/8/2020, Bản vẽ lần 3, DT: 259,8 m2 (tăng 12,8 m2 không còn chồng lấn và riêng ghi 2,7 m2 tường mới thửa 18, chồng lên tường cũ thửa 17). Thửa số 18, DT: 689,8 m2 giảm 15,5 m2 (Bản vẽ này ký ngày 15/9/202, nhưng ngày 30/9 lúc xét xử thẩm phán và VPĐKĐĐ vẫn chưa ký.

- Ngày 30/9/2020, xử sơ thẩm xong, Thẩm phán và VPĐKĐĐ chỉnh sửa lại thửa đất 18, DT: 690 m2 giảm 15,5 m2 theo Giấy chứng nhận năm 2013. Hiện nay trong hồ sơ chỉ còn Đơn đề nghị của Nguyễn Thị H, còn bản vẽ như trên không có trong hồ sơ vụ án.

Bản vẽ đo đạc ngày 17/10/2017, sơ đồ mặt bằng ngày 12/9/1986 của thửa đất số 18 (tài liệu do UBND thành phố N cung cấp theo Công văn số 5213/UBND-TNMT ngày 28/6/2019 cho Tòa án.

Khi xét xử sơ thẩm, do cấp điện nên không ghi biên bản phiên tòa. Biên bản đo đạc thẩm định ngày 15/9/2020 chưa ký.

Do vậy, ông Nhân đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà H, hủy Bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về tố tụng: Tại giai đoạn phúc thẩm những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện và chấp hành đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm (kèm bài Phát biểu của Kiểm sát viên tại hồ sơ vụ án).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Xem xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về tình trạng hồ sơ vụ án: Qua xem xét các hồ sơ, tài liệu do người khởi kiện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện cung cấp tại phiên tòa phúc thẩm, kiểm tra đối chiếu với mục lục tài liệu có trong hồ sơ vụ án (gồm 78 loại tài liệu, được đánh số bút lục từ 01 đến 150) cho thấy việc trình bày về tình trạng hồ sơ vụ án giữa giai đoạn sơ thẩm với giai đoạn phúc thẩm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà H là có căn cứ, các bản chụp các tài liệu tại giai đoạn sơ thẩm như ông Nhân đã nộp và trình bày là không có trong hồ sơ vụ án tại giai đoạn phúc thẩm. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa cũng cho rằng có nhiều tài liệu đã được thu thập ở giai đoạn sơ thẩm không có trong hồ sơ vụ án, tại phiên tòa phúc thẩm không thể làm rõ các tài liệu các bản sao chụp của ông Nhân cung cấp cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, mặc khác chỉ là các bản sao chụp, chưa được kiểm tra đối chiếu nên Hội đồng xét xử không xem đó là tài liệu, chứng cứ để xem xét, giải quyết nội dung vụ án.

[2]. Về nội dung: Quá trình khởi kiện bà H cho rằng diện tích đất tại các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 213051, số vào sổ: CH02333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N cấp cho ông Đặng Đình H, bà Nguyễn Thị H, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 274624 ngày 04/6/2013 do UBND thành phố N cấp cho ông Đỗ Xuân Hoàng; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở do UBND thành phố N cấp cho ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V là không đúng với hiện trạng sử dụng đất, thực tế hiện trạng sử dụng khác với diện tích đất được cấp trong các Giấy chứng nhận nêu trên và nguồn gốc đất, bà H đã phản ánh, yêu cầu nhưng UBND thành phố N có các Văn bản số 4499/UBND-TNMT ngày 04/7/2018, Văn bản số 4726/UBND-QLĐT ngày 21/7/2017 trả lời bà H nhưng bà H cho rằng nội dung các Văn bản nêu trên là không đúng, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà H do vậy bà H đã khởi kiện yêu cầu hủy 02 Văn bản nói trên và các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Đặng Đình H, bà Nguyễn Thị H, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Đỗ Xuân H và Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cấp cho ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết V.

Xem xét kết quả đo đạc hiện trạng các thửa đất tại sơ đồ bản vẽ ngày 29/9/2020 có trong hồ sơ vụ án (Bút lục 99), Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 213051, số vào sổ: CH02333/22363 ngày 08/7/2015 do UBND thành phố N cấp cho ông Đặng Đình H, bà Nguyễn Thị H có diện tích là 239,19m2. Nhưng theo sơ đồ bản vẽ ngày 29/9/2020 (Bút lục 99) hiện trạng thửa đất số 17 có diện tích 259,8m2, như vậy thửa đất của bà H ông H diện tích theo hiện trạng sử dụng tăng 12,8m2, tại phần nhận định của Bản án sơ thẩm có nêu “theo biên bản thẩm định ngày 18/5/2020” nhưng Biên bản thẩm định này không có trong hồ sơ vụ án. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 274624 ngày 04/6/2013 do UBND thành phố N cấp cho ông Đỗ Xuân Hoàng (thửa đất số 18) có diện tích 705,5m2, theo sơ đồ bản vẽ ngày 29/9/2020 có diện tích 690,0m2 (hiện do công ty cổ phần T sử dụng) giảm 15,5m2.

Theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của UBND thành phố N cấp cho ông Nguyễn Lam G và bà Võ Thị Tuyết diện tích đất theo Giấy chứng nhận 295m2 (thửa đất số 19), nhưng theo sơ đồ bản vẽ ngày 29/9/2020 thửa đất số 19, diện tích tăng 2,1m2.

Với kết quả thẩm định, đo đạc nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, cũng như theo trình bày của bà H thì qua các lần đo đạc thì số liệu thể hiện không thống nhất, còn nhiều mâu thuẫn. Mặc khác, tại sơ đồ bản vẽ ngày 29/9/2020 cũng đã xác định “Bản vẽ chưa có giá trị pháp lý về quyền sử dụng đất” nên chưa có cơ sở để các đương sự đi làm lại các thủ tục, điều chỉnh lại các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất theo hiện trạng đo vẽ và nhận định của Tòa án.

Do tình trạng hồ sơ thiếu các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong quá trình giải quyết vụ án tại giai đoạn sơ thẩm và việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, số liệu mâu thuẫn, chưa được các cơ quan chuyên môn xem xét, Tòa án cấp phúc thẩm không thể khắc phục, bổ sung được.

Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm để giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về án phí sơ thẩm, chi phí tố tụng sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án,

[4]. Về án phí phúc thẩm bà Nguyễn Thị H không phải chịu, hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho bà H.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 241 Luật tố tụng hành chính,

1/. Chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, hủy toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm số 23/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử lại vụ án theo quy định của pháp luật.

2/. Về án phí sơ thẩm, chi phí tố tụng sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án.

3/. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng khoản 3 Điều 34 Nghị quyết 326/2016/UBTV/QH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, hoàn trả 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm, do bà Đặng Phương Uyên nộp thay cho bà H tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001370 ngày 29/10/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa cho bà Nguyễn Thị H.

Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trả lời đơn và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 256/2021/HC-PT

Số hiệu:256/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 01/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về