TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 779/2023/HC-PT NGÀY 27/10/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
Ngày 27 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại HN xét xử công khai vụ án hành chính thụ lý số 496/2023/TLPT-HC ngày 26 tháng 6 năm 2023 về việc “Khởi kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”, do có kháng cáo của người khởi kiện với Bản án hành chính sơ thẩm số 85/2023/HC-ST ngày 10 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11779/2023/QĐ-PT ngày 10 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, vụ án có các đương sự sau:
1. Người khởi kiện: Bà Nghiêm Thị L1, sinh năm 1955; Địa chỉ: Tổ dân phố D, phường T, quận Nam Từ Liêm, Thành phố HN . Có mặt.
Người đại diện hợp pháp cho người khởi kiện: Ông Lê Đắc M, sinh năm 1974, trú tại: Tổ dân phố L, phường T, quận Nam Từ Liêm, TP HN là người đại diện theo ủy quyền của bà Nghiêm Thị L1 (Giấy ủy quyền L1 ngày 24/10/2022 đã được bà L1 ký xác nhận tại UBND phường T, quận Nam Từ Liêm, TP HN ). Có mặt.
2. Người bị kiện:
2.1 Chủ tịch UBND thành phố HN .
Địa chỉ: Số 79, phố H, phường L, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Trần Sỹ Th, chức vụ: Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.
Ông Nguyễn Trọng Đ, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND thành phố HN là người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội. (Văn bản ủy quyền: Giấy ủy quyền số 43/GUQ-UBND ngày 12/4/2023 về việc tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm). Vắng mặt.
2.2 Ủy ban nhân dân quận Nam Từ Liêm.
2.3 Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận Nam Từ Liêm.
Địa chỉ: Số 125 đường H, phường M, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Huy C là người đại diện theo pháp luật của UBND quận Nam Từ Liêm (Chức vụ: Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm).
Ông Nguyễn Quốc N, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm là người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện (Giấy ủy quyền số 05/GUQ-UBND ngày 22/11/2022 về việc cử người tham gia tố tụng hành chính). Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND phường T. Địa chỉ: Phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Ngọc L2 là người đại diện theo pháp luật của UBND phường T (Chức vụ: Chủ tịch UBND phường T). Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án như sau:
Thực hiện Dự án xây dựng Chợ dân sinh phường T, UBND quận Nam Từ Liêm đã ban hành Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28-9-2017 thu hồi toàn bộ 448 m2 đất nông nghiệp thuộc thửa số 194, tờ bản đồ số 28 phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố HN của bà Nghiêm Thị L1 sử dụng, trong đó có 428 m2 đất đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 246342 ngày 23-5-2005; có 20 m2 đất nông nghiệp không giao do UBND phường T quản lý.
UBND quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định số 5101/QĐ-UBND ngày 28-9- 2017 phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất đối với bà Nghiêm Thị L1. Cụ thể:
- Bồi thường về đất đối với 428 m2 đất nông nghiệp được giao với giá 201.600 đồng/m2, tỷ lệ bồi thường 100%, bằng 86.284.000 đồng.
- Không bồi thường, hỗ trợ đối với 20 m2 đất nông nghiệp tự sử dụng không được giao do UBND phường T quản lý.
- Hỗ trợ về tài sản trên đất là 65.350.343 đồng, gồm:
+ 82 m tường xây gạch 220, có bổ trụ, cao 1,3 m bằng 106,6 m2 với giá 1.196.104 đồng/m2 là 63.752.343 đồng.
+ 01 cây chuối có buồng với trị giá 40.000 đồng.
+ 14 cây chuối dưới 1 m trị giá 98.000 đồng.
+ 73 cây chuối cao trên 1 m trị giá 1.460.000 đồng.
Không đồng ý với quyết định thu hồi đất nêu trên, bà Nghiêm Thị L1 đã khiếu nại. Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm đã ban hành Quyết định số 6238/QĐ-UBND ngày 29-11-2017 giải quyết không chấp nhận khiếu nại, giữ nguyên quyết định thu hồi đất đối với bà Nghiêm Thị L1.
Bà Nghiêm Thị L1 tiếp tục khiếu nại và được Chủ tịch UBND thành phố HN ban hành Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28-6-2018 giải quyết khiếu nại lần hai với nội dung đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND quận nam Từ Liêm.
- Người khởi kiện bà Nghiêm Thị L1 trình bày: Ngày 05-12-2018, bà Nghiêm Thị L1 khởi kiện vụ án hành chính với yêu cầu hủy bỏ Quyết định thu hồi đất số 5099/QĐ-UBND ngày 28-9-2017 của UBND quận Nam Từ Liêm và Quyết định số 6238/QĐ-UBND ngày 29-11-2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm và Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 26-8-2018 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.
Lý do khởi kiện và quan điểm của bà Nghiêm Thị L1 như sau:
1. UBND quận Nam Từ Liêm thu hồi không đúng loại đất. Tất cả các văn bản liên quan đến đề xuất xây dựng chợ của UBND huyện Từ Liêm, nay là UBND quận Nam Từ Liêm và văn bản chấp thuận của Sở Quy hoạch – Kiến trúc thành phố HN cũng như văn bản của UBND thành phố HN đều xác định loại đất thu hồi là đất công cộng do UBND phường T quản lý. Trong khi đó, UBND quận Nam Từ Liêm lại thu hồi đất nông nghiệp của gia đình bà Nghiêm Thị L1 được giao theo Nghị định 64/CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ và đã được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất.
2. UBND quận Nam Từ Liêm thu hồi đất không đúng vị trí. Trong các văn bản đề xuất vị trí xây dựng chợ dân sinh T đều thể hiện là đất xen kẹt trong khu dân cư hiện có và có mạng lưới đường giao thông đã xây dựng hoàn thiện (Có bản đồ quy hoạch tỷ lệ 1/5000 được UBND thành phố HN phê duyệt tại Công văn số 922). Tuy nhiên, thửa đất của gia đình bà Nghiêm Thị L1 ở xa khu dân cư, không có mạng lưới giao thông đã xây dựng hoàn thiện nên không thể là vị trí, địa điểm để thu hồi đất thực hiện dự án.
Bà Nghiêm Thị L1 cho rằng vị trí đất thu hồi thực hiện dự án phải là thửa số 51 xen kẹt chứ không thể là thửa đất số 28 của gia đình. Công ty TNHH một thành viên địa chính HN đã chuyển lên tờ bản đồ số 28 là không đúng chấp thuận địa điểm xây dựng chợ của UBND thành phố HN xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà L1.
3. Bà Nghiêm Thị L1 cho rằng việc thu hồi đất nông nghiệp của gia đình để làm chợ dân sinh nêu trên là trái với các văn bản của cấp trên, chồng chéo và mâu thuẫn nhau. Cụ thể:
Việc thu hồi đất nông nghiệp của gia đình bà để làm chợ trái với văn bản của Quyết định phê duyệt khu đô thị S3 (Công văn số 305 ngày 14-3-2017 của Chi nhánh Văn phòng ĐKĐĐ quận Nam Từ Liêm); không đúng với công văn UBND quận Nam Từ Liêm báo cáo Văn phòng Chủ tịch nước và UBND thành phố Hà Nội; không đúng với công văn Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai quận Nam Từ Liêm trả lời. Bên cạnh đó, các văn bản của quận ban hành còn có sự chồng chéo như: có tới 02 quyết định 3241/QĐ-UBND, một cái ban hành ngày 30/10/2010 và 01 quyết định ban hành ngày 30/10/2014.
4. Vi phạm tự ý mở rộng quy mô xây dựng chợ dân sinh T mà không xin phép điều chỉnh quy mô dự án. Đây là sai phạm rất lớn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà. Theo văn bản số 228/UBND-TCKH ngày 07/03/2012 của UBND huyện Từ Liêm quy định rõ đất thu hồi để xây dựng chợ dân sinh là đất vườn do xã T quản lý, diện tích 3600m2, trong trường hợp muốn mở rộng quy mô của dự án thì phải thực hiện các thủ tục xin phép điều chỉnh quy hoạch của dự án để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Tuy nhiên trong quyết định số 3241/QĐ-UBND của UBND quận Nam Từ Liêm đã tự ý mở rộng diện tích dự án lên quy mô 4577m2, nhưng không thực hiện các thủ tục để xin điều chỉnh quy hoạch thực hiện dự án. Việc làm này không đúng quy định của pháp luật đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà.
Ngày 8/7/2019, bà Nghiêm Thị L1 bổ sung yêu cầu bổ sung đối tượng khởi kiện là Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh phường T và yêu cầu UBND quận Nam Từ Liêm phải bồi thường các thiệt hại về tài sản và tinh thần cho người khởi kiện do hành vi thu hồi đất không đúng quy định nhưng không đưa ra số tiền cụ thể. Ngày 22-11-2019, bà Nghiêm Thị L1 bổ sung yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính với số tiền cụ thể là 785.200.000 đồng gồm những thiệt hại về tài sản và thiệt hại về tinh thần.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 11-11-2019 bà Nghiêm Thị L1 bổ sung đối tượng khởi kiện là Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30-10-2014 của UBND quận Nam Từ Liêm.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 29/11/2019, bà Nghiêm Thị L1 bổ sung đối tượng khởi kiện là Quyết định 5101/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh T.
Bà L1 đề nghị Tòa án đưa Công ty TNHH MTV Địa chính HN tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm của Công ty trong việc tham gia xác định vị trí đất thu hồi.
- Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch UBND thành phố HN khẳng định giữ quan điểm giải quyết khiếu nại tại Quyết định số 3340/QĐ -UBND ngày 28-6-2018 và đề nghị Tòa án nhân dân thành phố HN xử bác đơn khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1.
- Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch và UBND quận Bắc Từ Liêm đề nghị Tòa án nhân dân thành phố HN không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 vì cho rằng hoạt động thu hồi đất là đúng pháp luật, lý do khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 không có cơ sở. Cụ thể:
Nguồn gốc sử dụng đất của bà Nghiêm Thị L1 được tặng cho từ mẹ đẻ là cụ Nguyễn Thị X theo Hợp đồng số 01/CNĐNN ngày 22-3-2005, đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận QSD đất số 1696.QSDĐ ngày 16/6/1998 trong đó có thửa đất số 194 tờ bản đồ số 28.
UBND quận Nam Từ Liêm đã ban hành Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với 23 hộ dân để thực hiện Dự án xây dựng chợ dân sinh T, trong đó có hộ gia đình bà Nghiêm Thị L1, song bà L1 không phối hợp nên ngày 25/3/2016 UBND quận Nam Từ Liêm đã có Quyết định số 1161 và ngày 28/11/2016 UBND quận Nam Từ Liêm đã có Quyết định số 7854 về việc kiểm đếm bắt buộc và việc cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc. Ngày 14/3/2017, tổ công tác giải phóng mặt bằng đã tổ chức niêm yết công khai, lấy ý kiến đối với dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ nhưng bà L1 không đồng ý. Tiếp đó, ngày 13/4/2017 tổ công tác giải phóng mặt bằng đã tổ chức đối thoại với bà L1 nhưng bà L1 vẫn không đồng ý với dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ. Ngày 17/4/2017 Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án đã họp và nhất trí với 02 dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ và đã niêm yết công khai trong đó có phương án của bà Nghiêm Thị L1. Ngày 28-9-2017, UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định số 5099/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và Quyết định 5101/QĐ-UBND về việc duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh T. Từ khi UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định về việc thu hồi đất và Quyết định về việc duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với bà L1, tổ công tác đã nhiều lần niêm yết công khai và gửi các Quyết định này đến hộ gia đình. Sau nhiều lần tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và vận động, thuyết phục nhưng gia đình bà L1 vẫn không nhận tiền bồi thường và không chấp hành việc bàn giao đất. Ngày 12/10/2017, Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng quận Nam Từ Liêm đã chuyển số tiền bồi thường, hỗ trợ phải chi trả vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước để làm căn cứ giải quyết sau này. Ngày 29/3/2018, UBND quận Nam Từ Liêm có Quyết định số 1184/QĐ- UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất là đảm bảo đúng quy định tại khoản 3, Điều 69, luật Đất đai năm 2013. Sau đó bà L1 có đơn khiếu nại đề nghị hủy Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất. Ngày 29/11/2017 UBND quận Nam Từ Liêm có Quyết định số 6238/QĐ- UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà L1 với nội dung: Giữ nguyên Quyết định thu hồi đất số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm.
- UBND phường T trình bày: Căn cứ vào quyết định số 1737/QĐ-UBND ngày 08/05/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát đo đạc, kiểm đếm để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh phường T.
Căn cứ Quyết định số 1769/QĐ-UBND ngày 12/05/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thành L1 hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh T.
Căn cứ Quyết định số 1770/QĐ-UBND ngày 12/05/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thành L1 tổ công tác GPMB để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh T.
UBND phường T thực hiện phối hợp với các đơn vị thực hiện việc kê khai, kiểm đếm đối với thửa đất số 194 tờ bản đồ số 28, diện tích 448m2. Tuy nhiên bà L1 là chủ sử dụng thửa đất nêu trên không thực hiện phối hợp nên UBND quận Nam Từ Liêm đã ban hành Quyết định kiểm đếm bắt buộc và Quyết định cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc đối với bà Nghiêm Thị L1.
Thực hiện Quyết định 1161/QĐ-UBND ngày 25/03/2016 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc kiểm đếm bắt buộc; Quyết định 7854/QĐ-UBND ngày 28/11/2016 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc cưỡng chế kiểm đếm bắt buộc; Quyết định 5099/QĐ-UBND và Quyết định 5101/QĐ-UBND, sau nhiều lần phối hợp với các đơn vị thực hiện các quyết định, tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và vận động thuyết phục nhưng gia đình bà L1 vẫn không nhận tiền và không chấp hành việc bàn giao đất. Đến ngày 29/03/2018, UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định số 1184/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh phường T. UBND phường T đã tiếp tục phối hợp với các đơn vị trong quận thực hiện quyết định cưỡng chế thu hồi đất nêu trên. Việc phối hợp của UBND phường được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án nhân dân thành phố HN giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 329/2019/HCST ngày 29/11/2019 và ngày 05/12/2019, Tòa án nhân dân thành phố HN đã quyết định:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 đề nghị hủy:
- Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28-9-2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về thu hồi thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28, xóm D, phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố HN đối với bà Nghiêm Thị L1.
- Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29-3-2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28, xóm D, phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố HN đối với bà Nghiêm Thị L1.
- Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29-11-2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm giải quyết khiếu nại lần đầu đối với bà Nghiêm Thị L1.
- Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28-6-2018 của Chủ tịch UBND thành phố HN giải quyết khiếu nại lần hai đối với bà Nghiêm Thị L1.
2. Bác yêu cầu của bà Nghiêm Thị L1 đòi UBND quận Nam Từ Liêm bồi thường thiệt hại số tiền 785.200.000 đồng trong vụ án hành chính.
Không xem xét yêu cầu của bà Nghiêm Thị L1 khởi kiện Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30-10-2014 của UBND quận Nam Từ Liêm.
Bà Nghiêm Thị L1 được quyền khởi kiện vụ án hành chính khác đối với Quyết định 5101/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 157/2021/HCPT ngày 06/7/2021, Tòa án nhân dân cấp cao tại HN quyết định: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện bà Nghiêm Thị L1. Hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 329/2019/HCST ngày 29/11/2019 và ngày 05/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố HN và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố HN xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Quá trình Tòa án nhân dân thành phố HN giải quyết sơ thẩm lần 2 vụ án: Người khởi kiện bà Nghiêm Thị L1: Giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét các quyết định hành chính gồm:
Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng chợ dân sinh phường T.
Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về thu hồi thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28, xóm D, phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố HN đối với bà Nghiêm Thị L1;
Quyết định số 5011/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh T;
Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28, xóm D, phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố HN đối với bà Nghiêm Thị L1;
Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29/11/2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm giải quyết khiếu nại lần đầu đối với bà Nghiêm Thị L1;
Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND thành phố HN giải quyết khiếu nại lần hai đối với bà Nghiêm Thị L1;
Bà Nghiêm Thị L1 yêu cầu UBND quận Nam Từ Liêm bồi thường thiệt hại số tiền 785.200.000 đồng trong vụ án hành chính.
Người bị kiện Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội: Giữ nguyên các quan điểm đã trình bày trước đây.
Người bị kiện Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm, UBND quận Nam Từ Liêm trình bày:
Ngày 01/4/2011, Sở Quy hoạch – Kiến trúc có Văn bản số 922/QHKT-P1 về việc địa điểm quy hoạch xây dựng chợ dân sinh thôn T xã T, huyện Từ Liêm (nay thuộc phường T, quận Nam Từ Liêm) có kèm theo sơ đồ vị trí địa điểm quy hoạch xây dựng chợ dân sinh thôn T, xã T. Ngày 24/4/2011, UBND thành phố HN có Văn bản số 2883/UBND- CT về việc chấp thuận địa điểm xây dựng chợ dân sinh tại thôn T, xã T, huyện Từ Liêm (nay thuộc phường T, quận Nam Từ Liêm) theo đề xuất của Sở Quy hoạch – Kiến trúc tại Văn bản số 922/QHKT-P1, Ngày 25/8/2014, UBND quận Nam Từ Liêm chấp thuận Bản vẽ Quy hoạch tổng mặt bằng sử dụng đất, tỷ lệ 1/500 do Công ty cổ phần tư vẫn HIC L1 năm 2014 để thực hiện dự án xây dựng chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm.
Ngày 30/10/2014, UBND quận Nam Từ Liêm có Quyết định số 3241/QĐ- UBND về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm.
Ngày 05/12/2014, Hội đồng nhân dân thành phố HN có Nghị quyết số 06/NQ- HĐND về việc thông qua danh mục các công trình, dự án thu hồi đất năm 2015; Ngày 29/01/2015, UBND thành phố HN ban hành Quyết định số 442/QĐ-UBND về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2015 quận Nam Từ Liêm, trong đó có dự án đầu tư xây dựng chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm.
Ngày 21/4/2015, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành bàn giao mốc giới trên thực địa với diện tích là 4.063,5m2 phục vụ công tác giải phóng mặt bằng thực hiện dự án (trong đó có 205,8m2 đất đã bàn giao cho Trung tâm giao dịch đất đai và Phát triển quỹ đất HN thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Đầu tư xây dựng khu đô thị mới tại xã T và Đại Mỗ).
Theo tọa độ tại Biên bản bàn giao mốc giới trên thực địa của Sở Tài nguyên và Môi trường ngày 21/4/2015, Công ty cổ phần Địa chính HN đã chuyển tọa độ mốc giới ngày 21/4/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường lên từ bản đồ số 28, tỷ lệ 1/1000, đo vẽ năm 1994 tại phường T thể hiện thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28 không nằm trong phần diện tích 205,8m2 đất đã bàn giao cho Trung tâm giao dịch đất đai và Phát triển quỹ đất HN thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Đầu tư xây dựng khu đô thị mới tại xã T và Đại Mỗ.
Về nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đất: Căn cứ Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, Quyết định số 1615/QĐ-UB của UBND thành phố HN về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; ngày 30/4/1995, Sở Địa chính Thành phố có Hướng dẫn số 618/ĐC-HĐ thực hiện Quyết định số 1615/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội. Ngày 12/9/1997, UBND xã T xây dựng dự án giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp, đã được UBND huyện Từ Liêm phê duyệt. Theo phương án giao đất nông nghiệp số thứ tự 70 thể hiện hộ gia đình bà Nguyễn Thị X (mẹ đẻ bà Nghiêm Thị L1) có 1 nhân khẩu thuộc đối tượng giao đất, diện tích bình quân giao là 465m2/01 nhân khẩu (diện tích bình quân nhân khẩu theo Hợp tác xã đã được UBND Thành phố phê duyệt tại Quyết định số 3696/QĐ-UB). Tại thời điểm giao đất theo Nghị định 64/CP, hộ bà Nguyễn Thị X sử dụng 564m2: trong đó có 544m2 đất (bao gồm thừa đất số 194, tờ bản đồ số 28, diện tích 428m2 và thửa đất số 629, tờ bản đồ số 22, diện tích 116m2) đã được giao sử dụng và đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1696. QSDĐ ngày 16/6/1998 và 20m2 đất thuộc thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28 dành cho quy hoạch xây dựng địa phương, nên không giao cho hộ gia đình bà X. Như vậy bà X đã được giao vượt so với định mức là 79m2 (544m2 – 465m2).
Ngày 22/3/2005, bà Nguyễn Thị X làm thủ tục tặng, cho quyền sử dụng đất cho bà Nghiêm Thị L1 theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 01/CNĐNN ngày 22/3/2005 và đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0002 ngày 23/5/2005 cho bà Nghiêm Thị L1 tại xã T với diện tích 428m2 đất nông nghiệp thuộc thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28. Như vậy, phần diện tích 20m2 đất bà L1 không được bà X tặng cho, vì là đất do UBND phường quản lý.
Việc bà Nghiêm Thị L1 khởi kiện đề nghị các Quyết định hành chính của UBND quận Nam Từ Liêm và của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm là không có cơ sở đề nghị TAND thành phố HN xem xét, giải quyết theo quy định.
Tài liệu do Tòa án nhân dân thành phố HN tiến hành thu thập: Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 02/3/2023 cùng Sơ đồ trích đo thửa đất.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 85/2023/HC-ST ngày 10/5/2023, Tòa án nhân dân thành phố HN đã quyết định:
Căn cứ vào: Điều 3, Điều 30, Điều 32, điểm h khoản 1 Điều 143, Điều 173, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều 206, Điều 348 Bộ luật Tố tụng hành chính; Điều 66; Điều 69; Điều 75, Điều 82 Luật đất đai 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ; Điều 18, 21, 27, 28, 29, 36, 37, 38, 39 Luật khiếu nại năm 2011; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 đề nghị hủy:
Thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm; Thông báo số 184/TB-UBND ngày 06/5/2016 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc đính chính Thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm;
Quyết định số 7854/QĐ-UBND ngày 28/11/2016 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T;
Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm;
Quyết định số 5101/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh T, quận Nam Từ Liêm;
Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm;
Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29/11/2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần đầu);
Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND thành phố HN giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần hai).
2. Bác yêu cầu của bà Nghiêm Thị L1 đề nghị UBND quận Nam Từ Liêm phải bồi thường thiệt hại số tiền 785.200.000 đồng trong vụ án hành chính.
3. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện đề nghị hủy Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng chợ dân sinh phường T.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/5/2023, người khởi kiện là bà Nghiêm Thị L1 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người bị kiện và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.
Người khởi kiện là bà Nghiêm Thị L1 và người đại diện theo ủy quyền của bà L1 giữ nguyên mọi quan điểm đã trình bày trong hồ sơ vụ án và đơn kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại HN nêu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính bác yêu cầu kháng cáo của bà Nghiêm Thị L1; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[1] Về tố tụng:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Đơn khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 đề nghị Tòa án hủy bỏ các quyết định hành chính gồm: Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng chợ dân sinh phường T; Thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm; Thông báo số 184/TB-UBND ngày 06/5/2016 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc đính chính Thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 7854/QĐ-UBND ngày 28/11/2016 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T; Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 5101/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh T, quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29/11/2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần đầu); Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND thành phố HN giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần hai); Yêu cầu UBND quận Nam Từ Liêm phải bồi thường các thiệt hại về tài sản, tinh thần cho người khởi kiện do hành vi thu hồi đất không đúng quy định với số tiền cụ thể là 785.200.000 đồng. Nhận thấy, đơn khởi kiện của bà L1 nộp trong thời hiệu khởi kiện. Tòa án nhân dân thành phố HN thụ lý đơn khởi kiện và xem xét giải quyết vụ án hành chính sơ thẩm là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
Về yêu cầu đưa người tham gia tố tụng: Người khởi kiện bà L1 đề nghị đưa Công ty TNHH MTV Địa chính HN tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm của Công ty trong việc tham gia xác định vị trí đất thu hồi. Nhận thấy, Điều 69 Luật đất đai năm 2013 quy định thẩm quyền của UBND cấp quận huyện phối hợp với UBND cấp xã thực hiện việc điều tra, khảo sát, đo đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để L1 phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Như vậy, UBND quận Nam Từ Liêm là cơ quan có trách nhiệm trong việc xác định vị trí đất thu hồi để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm. Đối với việc Công ty TNHH MTV Địa chính HN tham gia xác định vị trí đất thu hồi liên quan đến quyết định hành chính tổng thể cho toàn bộ dự án không có danh sách các hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất kèm theo, chưa làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Căn cứ vào khoản 2, 10 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty TNHH MTV Địa chính HN tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có cơ sở.
Tại phiên tòa, đại diện người bị kiện Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, Chủ tịch và UBND quận Bắc Từ Liêm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND phường T đã được triệu tập hợp lệ, vắng mặt lần 2. Căn cứ Điều 157 Luật tố tụng hành chính, Tòa án xét xử vắng mặt người bị kiện Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội, Chủ tịch và UBND quận Bắc Từ Liêm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND phường T.
[2] Xét Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng chợ dân sinh phường T, nhận thấy:
Khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính quy định:
“1. Quyết định hành chính là văn bản do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
2. Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại khoản 1 Điều này mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng chợ dân sinh phường T không có danh sách các hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất kèm theo. Quyết định số 3241/QĐ-UBND là quyết định hành chính, nhưng chưa làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nên căn cứ vào khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính thì Quyết định số 3241/QĐ-UBND không phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà L1 đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng chợ dân sinh phường T không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Căn cứ điểm h khoản 1 Điều 143 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của bà L1 yêu cầu hủy Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng chợ dân sinh phường T là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét Thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm; Thông báo số 184/TB-UBND ngày 06/5/2016 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc đính chính Thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 7854/QĐ-UBND ngày 28/11/2016 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T; Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm, thấy rằng:
Theo Điều 69 Luật đất đai năm 2013 về trình tự, thủ tục thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng gồm các thủ tục sau: Bước 1: Thông báo thu hồi đất; Bước 2: Điều tra, khảo sát, đo đạc, thống kê, kiểm đếm; Bước 3: Lấy ý kiến, L1, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Bước 4: Quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T là dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 62 Luật đất đai 2013 nên thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất giao chủ đầu tư thực hiện dự án. Thẩm quyền thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thuộc UBND cấp huyện theo quy định Điều 66 Luật đất đai 2013. Do đó, UBND quận Nam Từ Liêm ra Thông báo thu hồi đất số 417, Thông báo đính chính số 184 và Quyết định thu hồi đất số 5099 đối với bà L1 là đúng thẩm quyền. Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định kiểm đếm bắt buộc đối với bà L1 trong quá trình điều tra, khảo sát, đo đạc, thống kê, kiểm đếm đối với bà L1 là đúng thẩm quyền.
Về trình tự thủ tục thu hồi đất, UBND quận Nam Từ Liêm đã có Thông báo thu hồi đất đối với bà L1. UBND phường T đã xác nhận nguồn gốc đất. Trong quá trình điều tra, khảo sát, đo đạc, thống kê, kiểm đếm người bị thu hồi đất bà L1 không chấp hành, Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định. Trung tâm phát triển quỹ đất quận đã L1 dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết trình Hội đồng BTHT và TĐC dự án thông qua và UBND phường T tổ chức niêm yết công khai dự thảo phương án. Trên cơ sở kết quả tổng hợp ý kiến và thẩm định phương án bồi thường hỗ trợ, UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 về việc thu hồi đất đúng trình tự thủ tục quy định tại Điều 67, 69 Luật đất đai 2013.
Xét nội dung của Quyết định số số 5099/QĐ-UBND, Hội đồng xét xử xem xét đến nguồn gốc đất và vị trí thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28, diện tích 448m2 tại xóm D, phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố HN của người sử dụng đất bà Nghiêm Thị L1:
Về nguồn gốc đất: Diện tích đất thu hồi của bà L1 có nguồn gốc được nhận tặng cho từ mẹ đẻ bà Nguyễn Thị X. Ngày 16/6/1998, UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1696.QSDĐ cho hộ gia đình bà Nguyễn Thị X được quyền sử dụng đất 544m2 đất (bao gồm thửa đất số 194, tờ bản đồ 28, diện tích 428m2 đất, thửa đất số 629, tờ bản đồ số 22, diện tích 110m2 đất) tại xã T, huyện Từ Liêm, TP Hà Nội. Ngày 23/5/2005, bà X đã tặng cho 428m2 đất nông nghiệp thửa số 194, tờ bản đồ số 28 cho bà Nghiêm Thị L1 theo Hợp đồng tặng cho số 01. UBND huyện Từ Liêm, HN đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 246342 ngày 23/5/2005, số vào số cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H0002 cho chủ sử dụng đất bà Nghiêm Thị L1 đối với thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28; địa chỉ thửa đất: Xóm D, xã T, huyện Từ Liêm; diện tích 428m2; mục đích sử dụng: Đất trồng cây hàng năm.
Diện tích sử dụng thực tế của bà L1 là 448m2 đất tăng 20m2 so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hồ sơ quản lý đất thể hiện: Theo phương án giao đất nông nghiệp số thứ tự 70 thể hiện hộ gia đình bà Nguyễn Thị X (mẹ đẻ bà Nghiêm Thị L1) có 1 nhân khẩu thuộc đối tượng giao đất, diện tích bình quân giao là 465m2 cho 1 khẩu (diện tích bình quân nhân khẩu theo Hợp tác xã đã được UBND Thành phố phê duyệt tại Quyết định số 3696/QĐ-UB). Tại thời điểm giao đất theo Nghị định 64/CP, hộ bà Nguyễn Thị X sử dụng 564m2 đất và đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 1696.QSDĐ ngày 16/6/1998 đối với diện tích 544m2 đất và 20m2 đất thuộc thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28 dành cho quy hoạch xây dựng địa phương, nên không giao cho hộ gia đình bà X. Như vậy bà X đã được giao vượt so với định mức là 79m2 (544m2 – 465m2).
Về vị trí đất bị thu hồi: Theo tọa độ tại Biên bản bàn giao mốc giới trên thực địa của Sở Tài nguyên và Môi trường ngày 21/4/2015, Công ty cổ phần Địa chính HN đã chuyển tọa độ mốc giới ngày 21/4/2015 của Sở Tài nguyên và Môi trường lên từ bản đồ số 28, tỷ lệ 1/1000, đo vẽ năm 1994 tại phường T thể hiện thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28 được xác định nằm trong chỉ giới giải phóng mặt bằng Dự án Chợ dân sinh phường T, không nằm trong phần diện tích 205,8m2 đất đã bàn giao cho Trung tâm giao dịch đất đai và Phát triển quỹ đất HN thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án Đầu tư xây dựng khu đô thị mới tại xã T và Đại Mỗ. Ngày 02/3/2023, Tòa án nhân dân thành phố HN tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối với thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28, xóm D, phường T, quận Nam Từ Liêm, thành phố HN xác định hiện trạng thửa đất đã được bê tông nằm trong hàng rào của khuôn viên Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Do đó, bà L1 cho rằng thửa đất 194 của mình không nằm trong phạm vi để thực hiện dự án Chợ dân sinh phường T là không có căn cứ pháp lý.
Ngày 29/12/2016, UBND phường T có Giấy xác nhận số 23/UBND-ĐC thể hiện “Người sử dụng đất và sở hữu tài sản trên đất”. Bà Nghiêm Thị L1 có diện tích đất bị thu hồi tại dự án 448m2 đất nông nghiệp thuộc thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28, tỷ lệ 1/1000, do vẽ năm 1994 tại phường T trong đó 428m2 đất đã được UBND huyện Từ Liêm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 246342 ngày 23/5/2005 (số vào số cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H0002) và 20m2 đất nông nghiệp không giao, do UBND phường T quản lý, số nhân khẩu sản xuất nông nghiệp: không; bà Nghiêm Thị L1 không thuộc đối tượng giao đất theo NĐ 64/CP và nghỉ hưu”.
Nhận thấy, theo quy định tại khoản 2 Điều 7, Điều 8 Luật đất đai năm 2013 quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng chưa được giao để quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa phương. Như vậy, UBND phường T có thẩm quyền quản lý diện tích 20m2 đất nông nghiệp không được giao cho gia đình bà L1. Do đó, Giấy xác nhận số 23 nêu trên phù hợp quá trình sử dụng đất của gia đình bà L1 có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 3 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 và điểm 3 khoản 1 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ.
Từ những phân tích trên nhận thấy: Để thực hiện Dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Thông báo thu hồi đất số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015; Thông báo số 184/TB-UBND ngày 06/5/2016 về việc đính chính Thông báo thu hồi đất số 417/TB-UBND; Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 về việc thu hồi đất và Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định số 7854/QĐ-UBND ngày 28/11/2016 về việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc đúng thẩm quyền, tuân thủ trình tự, thủ tục, nội dung đảm bảo theo quy định Điều 69 Luật đất đai 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 và điểm 3 khoản 1 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 đề nghị hủy Thông báo thu hồi đất số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm; Thông báo số 184/TB-UBND ngày 06/5/2016 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc đính chính Thông báo số 417/TB-UBND; Quyết định số 7854/QĐ-UBND ngày 28/11/2016 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc; Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất không có căn cứ để chấp nhận.
[4] Xét Quyết định số 5101/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh T, quận Nam Từ Liêm, nhận thấy:
Về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành, UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định số 5101/QĐ-UBND cùng với Quyết định số 5099/QĐ-UBND về việc thu hồi đất trong ngày 28/9/2017 đảm bảo về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành theo quy định Điều 67, 69 Luật đất đai 2013.
Về căn cứ ban hành Quyết định, Hội đồng xét xử xem xét thấy:
Bồi thường về đất: UBND quận Nam Từ Liêm đã tính bồi thường về đất đối với 428 m2 đất nông nghiệp được giao với giá 201.600 đồng/m2, tỷ lệ bồi thường 100%, không bồi thường, hỗ trợ đối với 20 m2 đất nông nghiệp tự sử dụng không được giao do UBND phường T quản lý đúng với nguồn gốc, đảm bảo quyền lợi của của bà L1 theo quy định của khoản 2 Điều 77 Luật đất đai 2013.
Bồi thường, hỗ trợ về tài sản gắn liền với đất thu hồi: Bà L1 không có thắc mắc về nội dung bồi thường tài sản, hoa màu trên đất nên Tòa không xem xét.
Hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm: Bà Nghiêm Thị L1 không thuộc đối tượng giao đất theo Nghị định 64/CP và là công nhân nghỉ hưu. Căn cứ khoản 1 Điều 6 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, bà L1 không được hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất và hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm.
Từ những phân tích trên nhận thấy: Quyết định số 5101/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh T, quận Nam Từ Liêm và Phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư kèm theo Quyết định 5101/QĐ-UBND được ban hành đúng thẩm quyền, tuân thủ trình tự, thủ tục, nội dung được đảm bảo theo quy định Điều 69 Luật đất đai 2013. Do đó, yêu cầu khởi kiện của Nghiêm Thị L1 đề nghị hủy Quyết định số 5101/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm nêu trên không có căn cứ để chấp nhận.
[5] Xét Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm, thấy rằng:
Về thẩm quyền: Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 71 Luật đất đai năm 2013, Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi đất là đúng thẩm quyền.
Về trình tự, thủ tục ban hành, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm đã có hiệu lực pháp luật. Tổ công tác của UBND quận Nam Từ Liêm đã nhiều lần vận động, thuyết phục nhưng bà L1 không nhận tiền, bàn giao mặt bằng; không chấp hành các Quyết định đã có hiệu lực của UBND quận Nam Từ Liêm. Ngày 29/3/2018, UBND quận Nam Từ Liêm ban hành Quyết định số 1184/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất. Như vậy, trình tự thủ tục ban hành Quyết định số 1184/QĐ-UBND đúng theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai 2013; Khoản 2, Điều 11, Thông tư 30/2014/TT- BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Về căn cứ ban hành Quyết định cưỡng chế, như trên đã phân tích Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm được ban hành đúng theo quy định của pháp luật và có giá trị pháp lý buộc các bên có liên quan phải thi hành. Vì vậy, Quyết định số 1184/QĐ-UBND được ban hành có căn cứ pháp luật.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm được ban hành đúng thẩm quyền, tuân thủ đúng trình tự thủ tục và có căn cứ pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 69, Điều 71 Luật đất đai 2013. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 yêu cầu hủy Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi đất là không có cơ sở để chấp nhận.
[6] Xét Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29/11/2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần đầu), thấy rằng:
Về thẩm quyền, Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29/11/2017 được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 17 Luật khiếu nại.
Về trình tự ban hành, sau khi nhận đơn khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1, người bị kiện đã tiến hành thụ lý đơn khiếu nại và L1 tổ xác minh nội dung khiếu nại. Ngày 21/11/2017, Phòng Tài nguyên và Môi trường đã có Báo cáo số 1398/BC-TNMT kết quả xác minh nội dung khiếu nại của bà L1. Ngày 23/11/2017, UBND quận Nam Từ Liêm đã tổ chức đối thoại với bà L1. Căn cứ vào kết quả xác minh và đối thoại, Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm ban hành quyết định giải quyết khiếu nại là đúng trình tự, thủ tục quy định Điều 27, 28, 29 Luật khiếu nại năm 2011. Về hình thức, Quyết định được L1 thành văn bản theo đúng quy định Điều 31 Luật khiếu nại năm 2011.
Về căn cứ ban hành quyết định, Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND với nội dung: Giữ nguyên Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm. Nội dung của Quyết định 6238 phù hợp với các nhận định của Hội đồng xét xử đã nêu ở mục 3 phần nhận định của bản án. Do đó, nội dung của Quyết định số 6238 về việc giải quyết khiếu nại là đúng theo quy định của Luật đất đai năm 2013.
Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29/11/2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần đầu) ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục và nội dung có căn cứ theo quy định của Luật khiếu nại năm 2011, Luật đất đai năm 2013. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29/11/2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần đầu) không được chấp nhận.
[7] Xét Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND thành phố HN giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần hai), nhận thấy:
Xét về thẩm quyền, Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 18 Luật khiếu nại.
Xét về trình tự ban hành, sau khi nhận đơn khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1, người bị kiện đã tiến hành thụ lý đơn khiếu nại và tiến hành xác minh nội dung khiếu nại. Ngày 26/4/2018, Sở Tài nguyên và Môi trường có Báo cáo số 591/BC-STNMT về kết quả xác minh nội dung khiếu nại của bà L1. Căn cứ vào kết quả xác minh, Chủ tịch UBND thành phố HN ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 là đúng trình tự, thủ tục quy định Điều 36, 37, 38, 39 Luật khiếu nại năm 2011. Về hình thức, Quyết định được L1 thành văn bản theo đúng quy định Điều 40 Luật khiếu nại năm 2011.
Xét căn cứ ban hành quyết định, Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội: “Giữ nguyên nội dung Quyết định số 6238/QĐ-UBND ngày 29/11/2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 liên quan đến thu hồi thửa đất số 194, tờ bản đồ số 28, diện tích 448m2 tại phường T, quận Nam Từ Liêm để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm”. Mục [6] phần nhận định của bản án đã phân tích Quyết định số 6238/QĐ-UBND được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục, nội dung đúng theo quy định của Luật đất đai năm 2013, Luật khiếu nại năm 2011. Do đó, nội dung của Quyết định số 3340/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại là đúng theo quy định của pháp luật.
Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND thành phố HN giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần hai) được ban hành đúng về hình thức văn bản, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nội dung đúng theo quy định của Luật khiếu nại năm 2011. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà L1 hủy Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND thành phố HN giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần hai) không có căn cứ để chấp nhận.
[8] Xét yêu cầu UBND quận Nam Từ Liêm phải bồi thường các thiệt hại về tài sản, tinh thần cho người khởi kiện do hành vi thu hồi đất không đúng quy định với số tiền cụ thể 785.200.000 đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính chỉ phát sinh khi các quyết định hành chính bị kiện được xác định là trái pháp luật. Như đã nhận định nêu trên, các quyết định hành chính bị kiện là đúng pháp luật. Do đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại của bà L1 không có căn cứ để chấp nhận.
[9]. Tòa án cấp sơ thẩm đã bác yêu cầu khởi kiện của bà Nghiêm Thị L1 đề nghị hủy: Thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm; Thông báo số 184/TB-UBND ngày 06/5/2016 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc đính chính Thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T số 417/TB-UBND ngày 08/5/2015 của UBND quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 7854/QĐ-UBND ngày 28/11/2016 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh phường T; Quyết định số 5099/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 5101/QĐ-UBND ngày 28/9/2017 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng chợ dân sinh T, quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 1184/QĐ-UBND ngày 29/3/2018 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án Xây dựng Chợ dân sinh phường T, quận Nam Từ Liêm; Quyết định số 6238/QĐ-CTUBND ngày 29/11/2017 của Chủ tịch UBND quận Nam Từ Liêm về việc giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần đầu); Quyết định số 3340/QĐ-UBND ngày 28/6/2018 của Chủ tịch UBND thành phố HN giải quyết khiếu nại của bà Nghiêm Thị L1 (lần hai). Bác yêu cầu của bà Nghiêm Thị L1 đề nghị UBND quận Nam Từ Liêm phải bồi thường thiệt hại số tiền 785.200.000 đồng trong vụ án hành chính. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện đề nghị hủy Quyết định số 3241/QĐ-UBND ngày 30/10/2014 của UBND quận Nam Từ Liêm về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình: Xây dựng chợ dân sinh phường T là có cơ sở.
Tai phiên tòa phúc thẩm, bà Nghiêm Thị L1 không xuất trình được tình tiết mới làm căn cứ kháng cáo. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa, bác kháng cáo của bà Nghiêm Thị L1, giữ nguyên quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
[10]. Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của bà Nghiêm Thị L1 không được chấp nhận nên bà Nghiêm Thị L1 phải chịu án phí hành chính phúc thẩm nhưng do bà L1 là người cao tuổi nên được miễn án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[1]. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bà Nghiêm Thị L1; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 85/2023/HC-ST ngày 10/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
[2]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[3]. Án phí: Bà Nghiêm Thị L1 không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính sô 779/2023/HC-PT
Số hiệu: | 779/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 27/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về