TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 195/2023/HC-ST NGÀY 11/08/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
Các ngày 8, 11/8/2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 183/2022/TLST-HC ngày 15/11/2022 về khiếu kiện đối với các quyết định hành chính trong quản lý Nhà nước về đất đai theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/QĐ-ST ngày 05/7/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 136/2023/QĐST-HC ngày 20/7/2023, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1951.
Trú tại: Số 15, đường Phạm Văn Đ, tổ dân phố TX 3, phường XĐ, quận BTL, thành phố HN. (Có mặt).
2. Người bị kiện:
2.1 Ủy ban nhân dân quận BTL.
2.2 Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận BTL.
Địa chỉ: Phú Kiều, phường Phú Diễn, quận BTL, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Lưu Ngọc H là người đại diện theo pháp luật của UBND quận BTL (Chức vụ: Chủ tịch UBND quận BTL).
Ông Ngô Ngọc V, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND quận BTL là người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện (Quyết định ủy quyền số 441/QĐ-UBND ngày 23/02/2023 về việc tham gia tố tụng hành chính). (Có đơn xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
Ông Cao Ngọc H, chức vụ: Phó Phòng Tài nguyên và Môi trường quận BTL.
(Có đơn xin vắng mặt).
Ông Phạm Ngọc A, chức vụ: Phó Giám đốc Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng quận. (Có mặt).
(Quyết định số 442/QĐ-UBND ngày 23/2/2023 của Chủ tịch UBND quận BTL về việc cử cán bộ tham gia tố tụng hành chính)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ủy ban nhân dân phường XĐ, quận BTL, Hà Nội.
Địa chỉ: Số 418, phố XĐ, phường XĐ, quận BTL, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Đình Đ là người đại diện theo pháp luật của UBND phường XĐ (Chức vụ: Chủ tịch UBND phường XĐ). (Có đơn xin vắng mặt).
3.2 Ông Lương Văn T, sinh năm 1946. (Vắng mặt)
3.3 Anh Lương Minh H, sinh năm 1974. (Vắng mặt)
3.4 Chị Lê Thị Hồng K, sinh năm 1976. (Vắng mặt)
3.5 Cháu Lương Khánh L, sinh năm 2002. (Vắng mặt)
3.6 Cháu Lương Hoàng L, sinh năm 2004. (Vắng mặt)
3.7 Anh Lương Minh T, sinh năm 1978. (Vắng mặt)
3.8 Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1982. (Vắng mặt)
3.9 Cháu Lương Gia H, sinh năm 2007. (Vắng mặt)
3.10 Cháu Lương Gia H, sinh năm 2011. (Vắng mặt) Cùng trú tại: Số 15 đường Phạm Văn Đ, tổ dân phố TX 3, phường XĐ, quận BTL, thành phố HN.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án như sau:
Ngày 14/2/2010, Bộ Giao thông Vận tải ban hành Quyết định số 103/QĐ- BGTVT về việc phê Duyệt dự án đầu tư mở rộng đường Vành đai III, đoạn MD - NB, TP HN.
Ngày 12/5/2016, UBND thành phố HN ban hành Văn bản số 2689/UBND-ĐT về việc triển khai Dự án đầu tư mở rộng đường Vành đai III (đoạn MD - cầu TL).
Thực hiện Quyết định số 103/QĐ-BGTVT ngày 14/2/2010 của Bộ Giao thông Vận tải và Văn bản số 2689/UBND-ĐT ngày 12/5/2010 của UBND thành phố HN, UBND quận BTL đã thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Quận và thành lập tổ công tác dự án, đồng thời giao và chỉ đạo Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng quận BTL phối hợp với các đơn vị liên quan khẩn trương thực hiện công tác thu hồi đất và công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản trên đất nằm trong chỉ giới thu hồi đất để thực hiện dự án.
Trong số người sử dụng đất có đất thu hồi tại Dự án có bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T đang sử dụng diện tích 64,8m2 đất. Trong đó, diện tích đất thu hồi tại Dự án: 55,1m2 đất, diện tích đất còn lại: 9,7m2 đất.
Ngày 12/5/2018, UBND phường XĐ có Giấy xác nhận số 218/XN- XĐ đối với bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T. Căn cứ giấy tờ do người sử dụng đất cung cấp và hồ sơ quản lý đất đai lưu tại UBND phường, UBND phường XĐ đã xác nhận diện tích 55,1m2 đất thu hồi tại Dự án như sau:
- 55,1 m2 đất thu hồi thuộc một phần thửa đất số 17, tờ bản đồ số 44, Bản đồ đo vẽ năm 1994 tại xã XĐ (nay là phường XĐ). Trong đó:
+17,0 m2 đất ở đã được UBND huyện TL cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Quyết định số 13221/QĐ-UBND ngày 30/12/2011;
+ 29,4 m2 đất có nguồn gốc là đất quốc phòng, người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích để ở từ ngày 20/04/1988 đến nay;
+ 8,7 m2 đất có nguồn gốc là đất quốc phòng; UBND xã XĐ đã ký Hợp đồng cho thuê đất; Người sử dụng đất đã sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 đến nay.
Trên cơ sở xác nhận nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của UBND phường XĐ, UBND quận BTL đã ban hành Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 thu hồi 55,1m2 đất do bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T có hộ khẩu thường trú tại phường XĐ, quận BTL sử dụng để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 trên địa bàn quận BTL.
UBND quận BTL đã ban hành Quyết định số 7991/QĐ- UBND ngày 28/12/2018 và Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất do bà Nguyễn Thị H có hộ khẩu thường trú tại phường XĐ, quận BTL sử dụng để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) trên địa bàn quận BTL. Cụ thể như sau:
Bồi thường, hỗ trợ đất:
+ 17 m2 x 27.473.000 đồng/m2 = 467.041.000 đồng + 29,4m2 đất không tính hỗ trợ (Đất quốc phòng, thể hiện trên GCN QSD đất ở nhưng không được cấp GCN; Người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích để ở từ sau ngày 20/04/1988) +8,7m2 đất không tính hỗ trợ (Đất có nguồn gốc là đất quốc phòng; Người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 và kết hợp để ở từ sau ngày 15/10/1993).
Ngày 21/8/2020, Văn phòng UBND thành phố HN ban hành Thông báo 310/TB-VP về việc kết luận của Phó Chủ tịch UBND thành phố HN tại cuộc họp xem xét xác định vị trí thửa đất làm cơ sở bồi thường, hỗ trợ và giải quyết khiếu nại của một số công dân khi thực hiện dự án Đầu tư mở rộng đường Vành đai 3 đoạn MD - Cầu TL. Theo đó, UBND Thành phố cho phép UBND quận BTL áp dụng giá đất được xác định theo vị trí 1 đường Phạm Văn Đ nhân hệ số 0,9 (tương tự các trường hợp đã được UBND Thành phố chấp thuận tại Thông báo số 48/TB-VP ngày 21/02/2019) để bồi thường đối với phần diện tích đất ở bị thu hồi của 13 hộ gia đình, cá nhân tại phường XĐ. Trong đó có trường hợp bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T.
Ngày 17/5/2022, UBND quận BTL ban hành Quyết định số 1376/QĐ-UBND về duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Đầu tư mở rộng đường vành đai III đoạn MD – Cầu TL tại phường XĐ, quận BTL. Theo đó, UBND quận BTL phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đất như sau:
+ 17m2 x 59.103.000 đồng/m2 = 1.004.751.000 đồng (Đơn giá: 65.670.000 đồng x 0,9 = 59.103.000 đồng (theo vị trí 1 đường Phạm Văn Đ x hệ số k=0,9) + 29,4m2 đất không tính hỗ trợ (Đất quốc phòng, thể hiện trên GCN QSĐ đất ở nhưng không được cấp GCN; Người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích để ở từ sau ngày 20/04/1988) + 8,7m2 đất không tính hỗ trợ (Đất có nguồn gốc là đất quốc phòng; Người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 và kết hợp để ở từ sau ngày 15/10/1993) Hỗ trợ công trình xây dựng trên đất: Công trình nhà 01 tầng theo Biên bản điều tra xây dựng từ sau ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004; toàn bộ các công trình còn lại hoàn thành xây dựng từ sau ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/7/2014. Công trình xây dựng của bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T có một phần công trình nhà cấp 4, 01 tầng, diện tích 17m2 thể hiện trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (thuộc một phần công trình nhà 4 tầng) nên UBND quận BTL đã phê duyệt phương án hỗ trợ bằng 100% đơn giá xây dựng công trình mới theo cùng chủng loại đối với phần công trình nêu trên.
Công trình nhà 01 tầng theo Biên bản điều tra xây dựng từ sau ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 được tạo lập trên diện tích đất đã có kết luận của cơ quan có thẩm quyền là vi phạm pháp luật đất đai nên UBND quận BTL đã phê duyệt hỗ trợ bằng 10% đơn giá xây dựng công trình mới theo cùng chủng loại.
Các phần công trình xây dựng còn lại được tạo lập sau ngày 01/7/2004 (ngày Luật Xây dựng năm 2003 có hiệu lực) và không cung cấp được giấy phép xây dựng nên UBND quận BTL đã phê duyệt hỗ trợ bằng 10% đơn giá xây dựng công trình mới theo cùng chủng loại.
Hỗ trợ cây trồng trên đất: Diện tích đất bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T đang sử dụng có trồng 01 cây hoa sữa (trồng trên vỉa hè) nên UBND quận BTL đã phê duyệt hỗ trợ bằng 100% đơn giá bồi thường, hỗ trợ các loại cây phục vụ GPMB trên địa bàn thành phố Hà Nội tại thời điểm phê duyệt.
Ngày 05/3/2019, Chủ tịch UBND quận BTL đã ban hành Quyết định số 1014/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T do không chấp hành Quyết định số 7957/QĐ-UBND và Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL.
Bà Nguyễn Thị H không đồng ý với Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) trên địa bàn quận BTL nên đã làm đơn khiếu nại lên Chủ tịch UBND quận BTL.
Ngày 02/4/2019, Chủ tịch UBND quận BTL đã ban hành Quyết định số 1520/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị H giải quyết khiếu nại theo hướng: Điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai III đoạn MD - Cầu TL tại phường XĐ, quận BTL. Cụ thể như sau: Tính hỗ trợ bổ sung khoản hỗ trợ ổn định đời sống và áp dụng chính sách tái định cư đối với gia đình bà Nguyễn Thị H theo quy định.
Ngày 23/4/2019, UBND quận BTL đã ban hành Quyết định số 1894/QĐ- UBND về việc phê duyệt điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 theo quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND quận BTL.
Ngày 08/6/2022, bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy các Quyết định hành chính gồm:
- Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL thu hồi đất.
- Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 và Quyết định số 1376/QĐ- UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) trên địa bàn quận BTL.
- Yêu cầu UBND quận BTL phải xem xét lại phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng đối với gia đình bà theo đúng quy định của pháp luật.
Quan điểm của người khởi kiện: Về nguồn gốc thửa đất, toàn bộ số diện tích đất của gia đình đã ở và sử dụng từ năm 1975 được tôn tạo xây một nhà để ở. Từ khi sử dụng không khiếu kiện, tranh chấp. Khi làm sổ đỏ, UBND chỉ làm cho 17m2 còn 29.4m2 không làm cho với lý do sát mặt đường. Người khởi kiện không đồng ý xác định đất quốc phòng đối với 29.4m2 còn lại và không đền bù bồi thường.
Bà H có 19 m2 đất thuê hợp đồng của xã XĐ từ năm 1991 cùng với một số gia đình và đã nộp tiền đầy đủ cho xã XĐ, nhưng khi đền bù thì không được hỗ trợ đồng nào trong khi đó tất cả mọi nhà đều được hỗ trợ 5-10 triệu/1m2.
Người bị kiện Chủ tịch và UBND quận BTL trình bày: UBND quận BTL và Chủ tịch UBND quận BTL giữ nguyên các quyết định hành chính và các văn bản hành chính đã ban hành đối với bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T địa chỉ Phường XĐ, quận BTL khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) trên địa bàn quận BTL. Kiến nghị: Đây là một trong những dự án trọng điểm và cấp bách của thành phố Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ, Thành ủy và UBND thành phố HN trực tiếp chỉ đạo về công tác GPMB và đầu tư xây dựng công trình. Để đảm bảo tính nghiêm minh và thượng tôn pháp luật, UBND quận BTL kiến nghị Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội nghiên cứu và xét xử vụ án theo đúng quy định pháp luật. UBND quận BTL sẽ thực hiện nghiêm theo Bản án của Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND phường XĐ: Thống nhất quan điểm với UBND quận BTL.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan – các thành viên trong hộ gia đình bà H: Thống nhất quan điểm khởi kiện của người khởi kiện.
Tại phiên tòa:
Người khởi kiện bổ sung yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính hợp pháp của 05 quyết định hành chính gồm: Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ- UBND; Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 của Chủ tịch UBND quận BTL về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị H (lần đầu).
Đại diện người bị kiện Chủ tịch và UBND quận BTL, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND phường XĐ và các thành viên trong gia đình bà H có đơn xin xử vắng mặt.
Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
1. Về thủ tục tố tụng:
- Về đối tượng khởi kiện: Người khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy các quyết định hành chính gồm: Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND; Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 của Chủ tịch UBND quận BTL về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị H (lần đầu). Các quyết định bị khởi kiện là các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai được xác định quyết định hành chính cá biệt theo quy định tại khoản 2 Điều 3, Điều 30 Luật TTHC.
- Về thẩm quyền giải quyết: Theo quy định tại khoản 3, 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính, thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Về thời hiệu khởi kiện: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 3; Điều 30; khoản 4 Điều 32; khoản 1, 2 Điều 115; điểm a khoản 3 Điều 116 Luật TTHC, Tòa án NDTP Hà Nội thụ lý yêu cầu khởi kiện là trong thời hiệu khởi kiện.
2. Về nội dung yêu cầu khởi kiện: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật TTHC năm 2015; Nghị quyết 326 về án phí, lệ phí tòa án. Đề nghị HĐXX xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của gia đình bà H theo hướng hủy một phần QĐ thu hồi đất và QĐ phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Trong đó xác định lại về loại đất bị thu hồi, xác định lại mức đền bù tương ứng. Chủ tịch UBND và UBND quận BTL phải chịu án phí HCST.
Về án phí HCST theo qui định của pháp luật.
Sau khi xem xét, đánh giá khách quan toàn diện những tài liệu chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của đương sự, quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
Đối tượng khởi kiện: Căn cứ yêu cầu của người khởi kiện và đối chiếu các quy định của khoản 2 Điều 3, Điều 30 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử xác định quyết định hành chính bị kiện gồm: Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 7991/QĐ- UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND; Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL; Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 của Chủ tịch UBND quận BTL về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị H (lần đầu).
Về thời hiệu khởi kiện, ngày 08/6/2022, bà Nguyễn Thị H làm Đơn khởi kiện lên Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 3; Điều 30; khoản 4 Điều 32; khoản 1, 2 Điều 115; điểm a khoản 3 Điều 116 Luật TTHC, Tòa án NDTP Hà Nội thụ lý yêu cầu hủy Quyết định hành chính của Chủ tịch và UBND quận BTL, Hà Nội là trong thời hiệu khởi kiện và đúng thẩm quyền giải quyết.
Về tố tụng, tại phiên tòa, đại diện người bị kiện Chủ tịch và UBND quận BTL, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND phường XĐ và các thành viên trong gia đình bà H có đơn xin xử vắng mặt. Căn cứ Điều 157 Luật tố tụng hành chính, Tòa án xét xử vắng mặt người bị kiện Chủ tịch và UBND quận BTL, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND phường XĐ và các thành viên trong gia đình bà H.
[2] Xét Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL, thấy rằng:
Về thẩm quyền và căn cứ thu hồi đất, Dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) là dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 62 Luật đất đai 2013 nên thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất giao chủ đầu tư thực hiện dự án. Thẩm quyền thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thuộc UBND cấp huyện. Do đó, Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 thu hồi đất của hộ gia đình ông Lương Văn T và bà Nguyễn Thị H được ban hành bởi UBND quận BTL là đúng thẩm quyền và có căn cứ theo quy định Điều 66 Luật đất đai 2013.
Về trình tự thủ tục thu hồi đất, UBND quận BTL đã có Thông báo thu hồi đất đối với hộ gia đình. UBND phường XĐ đã xác nhận nguồn gốc đất. Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường đã có Tờ trình Hội đồng BTHT và TĐC dự án thông qua và UBND phường XĐ tổ chức niêm yết công khai dự thảo phương án. Trên cơ sở kết quả tổng hợp ý kiến và thẩm định phương án bồi thường hỗ trợ, UBND quận BTL ban hành Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 đúng trình tự thủ tục quy định tại Điều 67, 69 Luật đất đai 2013.
Xét nội dung của Quyết định thu hồi đất, Hội đồng xét xử xem xét đến nguồn gốc và quá trình sử dụng 55,1m2 đất của hộ gia đình bà Nguyễn Thị H.
Về nguồn gốc đất: Ngày 20/4/1988, bà Nguyễn Thị H (cấp bậc CNVQP đơn vị Xí nghiệp 164-TCHC) và chồng ông Lương Văn T được Tổng cục Hậu cần cấp Giấy quyết định phân phối nhà ở số 310 QĐ phân phối đến ở phòng số 02, tầng 01 nhà số B1 thuộc khu Tập thể gia đình cán bộ Xí nghiệp 164 – XĐ (không ghi diện tích nhà và đất). Liền kề với gian nhà ở của bà H còn khoảng diện tích đất trống và gia đình bà đã tự sử dụng vào mục đích đất ở từ những năm 1988 đến khi bị thu hồi đất.
Từ năm 1991 đến 1996, ông Thái (chồng bà H) đã ký Hợp đồng thuê đất với HTX và UBND xã XĐ, theo đó ông Thái thuê diện tích đất lưu không, có nguồn gốc là đất nông nghiệp (đất tiếp giáp mặt đường Phạm Văn Đ hiện nay) diện tích 19m2 để sử dụng vào mục đích kinh doanh. Ngày 05/6/1996, ông Thái và UBND xã XĐ đã thanh lý HĐ. Cùng ngày ông Thái có đơn xin phép sử dụng tạm thời diện tích đất thuê (sau khi đã thanh lý HĐ) để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh của gia đình và Chủ tịch UBND xã đồng ý yêu cầu nộp lệ phí theo quy định của địa phương. Gia đình bà tiếp tục quản lý diện tích đất lưu không và xây dựng nhà cấp 4 với diện tích 19m2 để kinh doanh dịch vụ và nộp lệ phí sinh lợi cho địa phương theo đơn đề nghị ngày 17/5/2001 đã được Chủ tịch UBND xã XĐ xác nhận. Việc sử dụng diện tích đất lưu không này tiếp tục cho đến khi bị Nhà nước thu hồi đất.
Năm 2011, bà H và ông Thái được UBND huyện TL cấp Giấy CNQSD đất, QSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho diện tích đất đang quản lý, sử dụng nêu trên. Cụ thể: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ829110 ngày 30/12/2011 đứng tên bà Nguyễn Thị H và ông Lương Văn T, thửa đất số -/-, tờ bản đồ số -/-, địa chỉ số 02B, dãy B1, Khu TT Công ty ***, xã XĐ, huyện TL, TP HN; diện tích đất khuôn viên sử dụng 46,4m2 trong đó diện tích đất ở lâu dài 17m2, diện tích đất không được cấp GCN 29,4m2; nhà ở cấp 4 với diện tích xây dựng 17m2.
Quá trình thực hiện dự án, bà H bị thu hồi diện tích 55,1m2 đất diện tích đất còn lại: 9,7m2 đất. UBND phường XĐ xác nhận thửa đất của hộ gia đình bà H thuộc một phần thửa đất số 17, tờ bản đồ số 44, Bản đồ đo vẽ năm 1994 tại xã XĐ (nay là phường XĐ). Sổ mục kê diện tích đất thổ cư thôn Cáo Đỉnh xác định diện tích 5776m2 số thửa 17, loại đất: quân đội. Trong tổng số diện tích 55,1m2 đất thu hồi của bà H, UBND xác định : 17,0m2 đất ở đã được UBND huyện TL cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 29,4m2 đất có nguồn gốc là đất quốc phòng, người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích để ở từ ngày 20/04/1988 đến nay; 8,7m2 đất có nguồn gốc là đất quốc phòng, UBND xã XĐ đã ký Hợp đồng cho thuê đất, người sử dụng đất đã sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 đến nay.
Hội đồng xét xử nhận thấy, UBND quận BTL cho rằng 29,4m2 đất thể hiện trên Giấy CN QSD đất số BĐ829110 nhưng không được cấp GCN có nguồn gốc là đất quốc phòng, gia đình tự sử dụng từ ngày 20/4/1988 (ngày ban hành Quyết định phân phối nhà ở) đến nay và vị trí đất này thuộc Kháng nghị số 603/KSTTPL ngày 20/8/1994 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội là chưa phù hợp, bởi lẽ:
Theo Kháng nghị số 603 xác định UBND xã XĐ có nhiều vi phạm, sơ hở trong quản lý đất đai, cụ thể: “… DT 197.924m2 đất của 17 đơn vị quân đội mượn xã từ thời kỳ chiến tranh chưa quản lý sử dụng tốt, nhiều khu vực như đất ở Q164 , trạm kiểm nghiệm xăng dầu đang bỏ hoang hóa. Đơn vị 29069 thuộc Cục quân nhu được hợp thức 9.484m2 đất doanh trại làm khu tập thể nhưng chưa thực hiện nghĩa vụ đến bù…”. Như vậy, tại thời điểm ban hành kháng nghị số 603 đã xác định không còn là đất quốc phòng đối với khu vực đất ở Q164 (Khu tập thể mà Tổng cục Hậu cần phân nhà cho bà H). Kháng nghị đã chỉ rõ khu vực đất ở Q164 thuộc phạm vi quản lý của UBND xã XĐ nhưng UBND đã có nhiều vi phạm đối với việc quản lý khu đất ở nêu trên dẫn đến để hoang hóa đất ở. Bên cạnh đó, hồ sơ của UBND quận BTL cung cấp không có tài liệu về việc từ thời điểm có kháng nghị đến nay có còn đơn vị Quốc phòng nào quản lý diện tích đất thuộc xã XĐ. UBND và Chủ tịch UBND quận BTL không có lời khai về việc xác định đơn vị thuộc Bộ quốc phòng có thẩm quyền quản lý thửa đất có diện tích đất thu hồi của hộ gia đình bà H. Việc gia đình bà H sử dụng diện tích đất liền kề với gian nhà tập thể được phân phối từ năm 1988 cũng đã được UBND quận BTL ghi nhận tại Giấy chứng nhận QSD đất số BĐ829110. Tuy nhiên, về diện tích đất này xác định chỉ là 29,4m2. Như vậy, gia đình bà H đã sử dụng diện tích 29,4m2 đất ổn định, liên tục vào mục đích để ở kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất năm 1988 (trước ngày 15/10/1993) đến thời điểm Nhà nước quyết định thu hồi đất đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, nhà ở theo khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai 2013 Diện tích 8,7 m2 đất còn lại là đất lưu không tiếp giáp với mặt đường Phạm Văn Đ. Căn cứ HĐ thuê đất với HTX và UBND xã XĐ với chồng bà H có từ năm 1991, Biên bản thanh lý hợp đồng thuê đất, Giấy phép xin xử dụng để xác định diện tích đất trên có nguồn gốc là đất nông nghiệp do UBND phường XĐ quản lý do người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 đến nay.
Do đó, Hội đồng xét xử xác định trong tổng diện tích 55,1m2 đất thu hồi tại Dự án do gia đình bà Nguyễn Thị H sử dụng có: 17,0m2 đất ở đã được UBND huyện TL cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ829110 ngày 30/12/2011; 29,4m2 đất ở của hộ gia đình (sử dụng đất ổn định, liên tục vào mục đích để ở trước ngày 15/10/1993 đến thời điểm Nhà nước quyết định thu hồi đất đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Điều 101 Luật đất đai 2013); 8,7m2 đất do UBND phường quản lý, người sử dụng đất đã sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 đến nay.
Từ những phân tích trên nhận thấy: Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc thu hồi đất được ban hành đúng thẩm quyền, tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định Điều 69 Luật đất đai 2013. Về nội dung, Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL xác định nguồn gốc đất thu hồi chưa đúng với quy định tại Điều 11 Luật Đất đai năm 2013, Điều 3 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 và điểm 3 khoản 1 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ. Do đó, Hội đồng xét xử xét chấp nhận một phần yêu cầu của người khởi kiện hủy bỏ một phần Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc thu hồi đất liên quan đến nguồn gốc đất.
[3] Xét Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND và Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, thấy rằng:
Về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành, Quyết định số 7991/QĐ-UBND được UBND quận BTL ban hành cùng Quyết định số 7957/QĐ-UBND của về việc thu hồi đất trong ngày 28/12/2018 đảm bảo về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành theo đúng quy định Điều 67, 69 Luật đất đai 2013.
Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND và Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được ban hành theo Quyết định giải quyết khiếu nại số 1520/UBND ngày 02/4/2019 của Chủ tịch UBND quận BTL và Thông báo 310/TB-VP ngày 21/8/2020 của Văn phòng UBND thành phố HN về việc kết luận của Phó Chủ tịch UBND thành phố HN tại cuộc họp xem xét xác định vị trí thửa đất làm cơ sở bồi thường, hỗ trợ và giải quyết khiếu nại của một số công dân khi thực hiện dự án Đầu tư mở rộng đường Vành đai 3 đoạn MD - Cầu TL cũng đảm bảo về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành theo đúng quy định Điều 67, 69 Luật đất đai 2013.
Về căn cứ ban hành 02 Quyết định, Hội đồng xét xử xem xét thấy:
Bồi thường về đất: Diện tích 17m2 đất ở đã được cấp Giấy CNQSD xác định vị trí 01 đường Phạm Văn Đ, áp đơn giá theo Văn bản số 310/TB-VP ngày 21/8/2020 của UBND thành phố HN cho phép áp dụng giá đất được xác định theo vị trí 1 đường Phạm Văn Đ nhân hệ số 0,9 đơn giá theo Quyết định số 3898/QĐ-UBND ngày 15/7/2016 (Đơn giá: 65.670.000 đồng x 0,9 = 59.103.000 đồng (theo vị trí 1 đường Phạm Văn Đ x hệ số k=0,9)) để bồi thường đối với phần diện tích đất ở là phù hợp với thực tế sử dụng đất của hộ gia đình bà H.
Diện tích 29,4m2 đất không bồi thường, hỗ trợ vì UBND quận cho rằng đất có nguồn gốc đất quốc phòng là không phù hợp với nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của bà H. Theo phân tích trên, diện tích 29,4m2 đất ổn định, liên tục vào mục đích để ở kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất năm 1988 (trước ngày 15/10/1993) đến thời điểm Nhà nước quyết định thu hồi đất đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, nhà ở theo khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai 2013. Như vậy, căn cứ quy định tại khoản 2,3 Điều 101 Luật đất đai 2013; khoản 1 Điều 20, khoản 1 và điểm b, e khoản 2 Điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP thì đất của gia đình bà thuộc trường hợp đủ điều kiện để được công nhận là đất ở tại thời điểm có quyết định thu hồi để được hưởng bồi thường về đất hoặc nhà ở khi Nhà nước thu hồi theo khoản 1 Điều 75, điểm a khoản 1 Điều 79 Luật đất đai 2013. Vị trí đất, đơn giá đất được áp dụng theo Văn bản số 310/TB-VP ngày 21/8/2020 của UBND thành phố HN cụ thể vị trí 1 đường Phạm Văn Đ nhân hệ số 0,9 đơn giá theo Quyết định số 3898/QĐ- UBND ngày 15/7/2016 của UBND TP Hà Nội (Đơn giá: 65.670.000 đồng x 0,9 = 59.103.000 đồng (theo vị trí 1 đường Phạm Văn Đ x hệ số k = 0,9)) để bồi thường đối với diện tích 29,4m2 đất ở.
Diện tích 8,7m2 có nguồn gốc là đất nông nghiệp do UBND phường XĐ quản lý, người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 đến nay nhưng UBND quận đã không tính hỗ trợ cho gia đình bà H là không đảm bảo quyền lợi cho người dân. Do đó, căn cứ Thông báo số 304/TB-UBND ngày 22/8/2016 của UBND TP Hà Nội thì 8,7m2 có nguồn gốc là đất nông nghiệp do UBND phường XĐ quản lý, người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 đến nay được hỗ trợ 30% theo giá đất đối với diện tích vị trí 1 đường Phạm Văn Đ.
Bồi thường, hỗ trợ công trình xây dựng trên đất:
Theo Phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư kèm theo Quyết định số 7991 ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL xác định công trình trên đất có 03 khối nhà gồm: 01 nhà 1 tầng, tường xây gạch 110, mái lợp tôn, không khu phụ, diện tích tổng 15,51m2; 01 nhà 4 tầng, kết cấu khung cột mái bằng BTCT, móng có gia cố cộc bê tông, tường xây gạch 110, diện tích tầng 1 là 24,68m2; 01 nhà 02 tầng xây gạch 110, móng gia cố cọc bê tông, mái bằng BTCT diện tích tầng 1 là 12,17m2.
Tại Phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư kèm Quyết định số 7991, UBND quận BTL đã tính bồi thường 17m2 tầng 1 nhà 4 tầng được thể hiện trong Giấy CN quyền sử dụng đất được bồi thường bằng 100% đơn giá xây dựng, phần công trình còn lại được hỗ trợ bằng 10% đơn giá xây dựng.
Hội đồng xét xử nhận thấy, trong tổng diện tích 55,1m2 đất thu hồi của gia đình bà H có 17m2 + 29,4m2 = 46,4m2 đất ở và 8,7m2 đất do UBND phường quản lý, người sử dụng đất đã sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh. Như vậy, công trình xây dựng trên diện tích 46,4m2 đất ở được bồi thường bằng 100% đơn giá xây dựng theo quy định Điều 12 Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 của UBND thành phố HN. Do đó, UBND quận phải tính bồi thường cho bà H ông Thái bằng 100% đơn giá xây dựng đối với các công trình nhà xây dựng trên diện tích 46,4m2 đất ở đã được công nhận và ghi nhận tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ829110 gồm: Nhà 4 tầng, kết cấu khung cột mái bằng BTCT, móng có gia cố cộc bê tông, tường xây gạch 110 có diện tích tầng 1 là 24,68m2; diện tích tầng 2,3 là 37,08m2, diện tích tầng 4 là 13,79m2; Nhà 02 tầng xây gạch 110, móng gia cố cọc bê tông, mái bằng BTCT diện tích tầng 1 là 12,17m2, diện tích tầng 2 là 10,21m2; 7,75m2 tầng 1 nhà 1 tầng tường gạch 110, mái lợp tôn.
Phần công trình còn lại xác định xây dựng trên diện tích 8,7m2 có nguồn gốc là đất nông nghiệp do UBND phường XĐ quản lý, người sử dụng đất đã tự sử dụng ổn định vào mục đích sản xuất, kinh doanh từ trước ngày 15/10/1993 và kết hợp để ở từ sau ngày 15/10/1993 nên được hỗ trợ bằng 50% đơn giá xây dựng theo quy định khoản 2 Điều 14 Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 của UBND thành phố HN.
Các khoản bồi thường hỗ trợ khác: Tại địa chỉ GPMB, gia đình bà H có 03 gia đình gồm 10 nhân khẩu đang sinh sống. Tại Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND, UBND quận BTL đã hỗ trợ ổn định đời sống với 10 nhân khẩu và hỗ trợ tái định cư 03 căn hộ cho 03 hộ gia đình nhà bà H, ông Thái là đảm bảo quyền lợi của người dân theo đúng quy định Điều 7 và Điều 26 Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 của UBND thành phố HN.
Từ những phân tích trên nhận thấy: Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND và Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được ban hành đúng thẩm quyền, tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định Điều 69 Luật đất đai 2013. Về nội dung, Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND ban hành có căn cứ đảm bảo quyền lợi của người dân. Quyết định số 7991, 1376 được ban hành không có căn cứ pháp luật. Do đó, chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà H hủy Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất phần bồi thường.
[4] Xét Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 của Chủ tịch UBND quận BTL về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị H (lần đầu), thấy rằng:
Xét về thẩm quyền, Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 được ban hành đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 18 Luật khiếu nại.
Xét về trình tự ban hành, sau khi nhận đơn khiếu nại, người bị kiện đã tiến hành thụ lý đơn khiếu nại và giao cho Thanh tra quận tổ chức xác minh. Trên cơ sử kết quả xác minh nội dung khiếu nại của Thanh tra quận, Chủ tịch UBND quận BTL đã ban hành QĐ số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 về việc giải quyết khiếu nại của bà H (lần đầu) đã đúng theo quy định tại Điều 31 Luật khiếu nại. Về hình thức, Quyết định được lập thành văn bản theo đúng quy định Điều 31 Luật khiếu nại năm 2011.
Xét căn cứ ban hành quyết định, Hội đồng xét xử nhận thấy Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 điều chỉnh một phần Quyết định số 7991/QĐ- UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Căn cứ vào Quyết định giải quyết khiếu nại số 1520, UBND quận BTL ban hành Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND. Như trên đã phân tích, Quyết định số 1894/QĐ-UBND của UBND quận BTL ban hành có căn cứ đảm bảo quyền lợi của người dân. Do đó, nội dung của Quyết định giải quyết khiếu nại có căn cứ.
Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 01/4/2019 của Chủ tịch UBND quận BTL được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục nhưng không có căn cứ. Do đo, yêu cầu khởi kiện đề nghị hủy Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 của Chủ tịch UBND quận BTL về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị H (lần đầu) không có căn cứ để chấp nhận.
[5] Về án phí: Tòa án chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà H nên không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Chủ tịch, UBND quận BTL phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, Điều 116, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều 206, Điều 348 Luật Tố tụng hành chính;
Điều 66; Điều 69; Điều 75, Điều 82 Luật đất đai 2013; Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Điều 18, 30, 31 Luật khiếu nại năm 2011; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.
Hủy một phần Quyết định số 7957/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc thu hồi đất để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL liên quan đến nguồn gốc đất.
Hủy một phần Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL và Phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư kèm theo QĐ số 7991. Các phần bị hủy gồm: Phần 1. Bồi thường, hỗ trợ về đất; Phần 2. Bồi thường hỗ trợ về tài sản gắn liền với đất thu hồi.
Hủy một phần Quyết định số 1376/QĐ-UBND ngày 17/5/2022 của UBND quận BTL về việc phê duyệt phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ và tái định cư để thực hiện dự án Mở rộng đường Vành đai 3 (đoạn MD - Cầu TL) tại phường XĐ, quận BTL và Phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư kèm theo QĐ số 1376. Các phần bị hủy gồm: Phần A. Bồi thường, hỗ trợ về đất mục 3, 4.
2. Buộc UBND quận BTL ban hành Quyết định thu hồi đất điều chỉnh, bổ sung; Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư kèm theo Phương án bồi thường, hỗ trợ chi tiết khi Nhà nước thu hồi đất đối với hộ gia đình bà Nguyễn Thị H theo đúng quy định của pháp luật.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H đề nghị hủy: Quyết định số 1520/QĐ-UBND ngày 02/4/2019 của Chủ tịch UBND quận BTL về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị H (lần đầu); Quyết định số 1894/QĐ- UBND ngày 23/4/2019 của UBND quận BTL về việc điều chỉnh Quyết định số 7991/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 của UBND quận BTL.
4. Về án phí: Bà H không phải chịu án phí HCST.
Chủ tịch UBND quận và UBND quận BTL phải nộp số tiền 300.000 đồng/01 người án phí hành chính sơ thẩm.
5. Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo đúng quy định của pháp luật.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 195/2023/HC-ST
Số hiệu: | 195/2023/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 11/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về