TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 196/2023/HC-PT NGÀY 29/03/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Trong các ngày 27 và 29 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 860/2022/TLPT-HC ngày 08 tháng 12 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 1219/2022/HC-ST ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 445/2023/QĐ-PT ngày 27/02/2023 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Tạ Văn H. Địa chỉ: huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1971; Địa chỉ: Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
2. Người bị kiện:
2.1. Ủy ban nhân dân huyện C.
2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C.
Địa chỉ: Đường Lương Văn N, thị trấn Cần Thạnh, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn H, chức vụ: Chủ tịch (có đơn xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Bà Nguyễn Thị Linh P, Phó trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1965. Địa chỉ: huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bà Hoa: Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1971; Địa chỉ: Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
3.2. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1937 (có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.3. Ủy ban nhân dân xã L (có đơn xin vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Long Thạnh, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Tạ Văn H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, các biên bản đối thoại và lời trình bày tại phiên tòa, người khởi kiện ông Tạ Văn H có người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Cuối năm 1992 và đầu năm 1993, ông H có khai hoang miếng đất thuộc các tờ bản đồ số 33, 34 một phần các thửa 34, 9, 10, 12, 17, 20, 13, 14, 15 và 16, sau đó sản xuất muối từ năm 1994 đến nay. Trong quá trình sản xuất muối ông H đã cất một chòi lá trên mảnh đất đó để chứa muối, năm 1999 ông H xây nhà để ở và làm muối liên tục được những người dân sinh sống gần khu vực này chứng kiến. Do thời gian đầu còn khó khăn, ông H tập trung sản xuất muối nên không đi làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngày 28/02/2007, Ủy ban nhân dân xã L có Công văn số 41/UBND- ĐC trả lời đơn xin hợp thức hóa đất và nhà của ông H đang ở và làm muối là đất công, nên không đủ điều kiện được cấp.
Theo quy định tại Điều 20 mục 5.a của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Mục 2 Điều 101 của Luật Đất đai thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 100 của luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01/7/2004 và không vi phạm luật đất đai thì được cấp giấy chứng nhận. Do đó ngày 28/02/2016, ông H nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại Ủy ban nhân dân xã L. Ngày 18/8/2017, Ủy ban nhân dân huyện C có Văn bản số 3418/UBND về việc trả lời hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông H với nội dung: “Hoàn trả hồ sơ do nguồn gốc đất là đất công được phê duyệt theo quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009”. Ngày 06/11/2017, ông H nộp đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân huyện C. Ngày 19/4/2019, ông H nhận được Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 08/4/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về giải quyết đơn khiếu nại của ông H, không đồng ý với quyết định trên, nên ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy các quyết định sau:
+ Hủy Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009 của Ủy ban nhân dân huyện C về phê duyệt số liệu diện tích đất do Nhà nước trực tiếp quản lý thuộc xã L;
+ Hủy Văn bản số 3418/UBND ngày 18/8/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về trả lời hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của công dân;
+ Hủy Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 08/4/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về giải quyết đơn khiếu nại của ông Tạ Văn H;
+ Buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông đối với miếng đất thuộc các tờ bản đồ số 33, 34 một phần các thửa 34, 9, 10, 12, 17, 20, 13, 14, 15 và 16 mà ông đã khai hoang từ năm 1992 và sản xuất muối liên tục đến nay.
Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện C và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C có người đại diện theo ủy quyền là ông Trương Tiến T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tại các Văn bản số 4987/UBND ngày 24/10/2019 và số 6946/UBND ngày 15/12/2020, Ủy ban nhân dân huyện C và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C có ý kiến như sau:
Theo ông H trình bày nguồn gốc, quá trình sử dụng khu đất có diện tích 21.800,3m2, thuộc một phần các thửa số 34, 9, 10, 12, 17, 20 và các thửa 13, 14, 15, 16 tờ bản đồ số 33, 34 bản đồ địa chính năm 2005 (Bản vẽ hiện trạng vị trí của Công ty TNHH MTV đầu tư phát triển đo đạc bản đồ Phương Nam đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện phê duyệt ngày 14/11/2016), cụ thể:
“- Về nguồn gốc đất: Do ông khai hoang năm 1992 (năm 1992 bắt đầu khai hoang dần dần đến năm 1993 hoàn thiện 1,5ha). Phần diện tích còn lại khoảng 7000m2 ông khai hoang từ năm 1993, khai hoang dần dần đến năm 2000 là hoàn thiện. Ông sử dụng phần diện tích 7000m2 này làm hồ chứa nước sản xuất muối.
- Về quá trình sử dụng:
+ Phần diện tích 1,5ha ông H sản xuất muối ổn định từ năm 1994 cho đến nay không bị gián đoạn năm nào, chỉ sản xuất muối chứ không sử dụng vào mục đích khác. Quá trình sản xuất ông có thu hoạch và bán muối cho ông Phạm Văn Minh đang tạm trú ấp Hòa Hiệp (Ông Minh đang thuê sở muối của hội cựu chiến binh), ông bán muối cho ông Minh liên tục từ năm 2000 cho đến nay. Trước năm 2000, ông bán muối cho ghe ở Bến tre và bán cho cô Chi ở Đồng Hòa.
+ Phần diện tích khoảng 7000m2 sau khi khai hoang ông H sử dụng làm hồ chứa nước biển cho đến nay.
- Về nghĩa vụ thuế: Ông có đóng thuế nhưng chỉ còn giữ 01 biên lai đã cung cấp”.
Ngày 18/8/2017, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành Công văn số 3418/UBND trả lời cho ông H với nội dung: “…không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận do nguồn gốc sử dụng đất là đất công Ủy ban nhân dân xã L quản lý…”. Không đồng ý với nội dung công văn trên, ông H gửi đơn khiếu nại.
- Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất qua xác minh, đối chiếu:
Năm 1994, Ủy ban nhân dân xã L tạm cho phép ông H mượn 15.000m2 để sản xuất muối trong khi chờ triển khai dự án Sadeco (Biên bản tiếp xúc với ông H do Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C lập ngày 28/4/2006, Công văn số 41/UBND-ĐC ngày 28/02/2007 của Ủy ban nhân dân xã L về trả lời đơn xin hợp thức hóa quyền sử dụng đất). Trong diện tích nêu trên có 3.740m2/15.000m2, năm 1976 Ủy ban nhân dân xã L cấp cho gia đình bà Nguyễn Thị L1. Bà L1 sử dụng một phần diện tích đất này để làm nhà ở, năm 1983 gia đình bà L1 chuyển ra khu dân cư tập trung tại ấp Hòa Hiệp ở, phần diện tích trên bà L1 không sử dụng. Năm 2005, bà L1 có đơn xin cấp quyền sử dụng đất đối với diện tích 3.740m2 nêu trên, ngày 22/5/2006 Ủy ban nhân dân huyện có Thông báo số 151/TB-UBND-TNMT trả lời đơn xin cấp quyền sử dụng của bà L1 không đủ cơ sở để xem xét, giải quyết. Ngày 23/8/2006, Ủy ban nhân dân huyện ban hành Quyết định số 668/QĐ-UBND bác đơn khiếu nại của bà L1.
Không đồng ý với quyết định giải quyết của huyện, bà L1 khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thành phố, ngày 02/4/2007 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 1353/QĐ-UBND đã xác định từ năm 1983 đến nay bà L1 hoàn toàn không sử dụng phần đất 3.740m2, đất do Ủy ban nhân dân xã L quản lý do đó bác đơn của bà L1 (Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng, có hiệu lực pháp luật).
Năm 2005, ông H có đơn xin xác nhận diện tích sản xuất muối của ông là 1,5ha tại ấp Hòa Hiệp để bổ sung hồ sơ vay vốn ngân hàng.
Ngày 28/8/2006, ông H có đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 17.263m2 thuộc một phần thửa 34 tờ bản đồ 33; một phần thửa 9, 10, 12, 17, 19, 20 và thửa 13, 14, 15, 16, tờ bản đồ 34 xã L (bản đồ địa chính năm 2005). Ngày 28/02/2007, Ủy ban nhân dân xã L có Công văn số 41/UBND-ĐC trả lời “đơn xin hợp thức hóa quyền sử dụng đất của ông Tạ Văn H là không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do nguồn gốc đất ông H đang sản xuất là đất công và đề nghị ông Tạ Văn H đến xã lập thủ tục giao lại phần đất trên để xã quản lý theo chế độ đất công. Trong thời gian dự án chưa triển khai, nếu gia đình ông H có nhu cầu tiếp tục sản xuất thì có đơn đề nghị gởi xã để xem xét giải quyết”. Sau khi nhận được công văn trên, ông H không khiếu nại, không giao lại đất theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân xã mà vẫn tiếp tục sản xuất muối.
Năm 2009, Ủy ban nhân dân huyện giao khoảng 29.000m2 (thửa 34 tờ bản đồ 33; thửa 9, 10, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 19, 20 tờ bản đồ 34) trong đó có phần diện tích ông H đang sử dụng cho Ủy ban nhân dân xã L quản lý theo Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009 của Ủy ban nhân dân huyện về phê duyệt số liệu diện tích đất do Nhà nước trực tiếp quản lý thuộc xã L.
Theo Chỉ thị 02/CT-UB ngày 18/01/2002 của Ủy ban nhân dân thành phố (bản đồ đo vẽ năm 1995) đã xác định phần đất ông H xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc một phần thửa 28 (loại đất Ao), một phần thửa 29 (loại đất Ao), tờ bản đồ 03 xã L do Ủy ban nhân dân xã L kê khai đăng ký.
Theo Tài liệu bản đồ địa chính năm 2005 (đo vẽ tháng 9/2003), phần đất nêu trên nhằm:
+ Một phần thửa 34 (loại đất Muối), tờ bản đồ 33 xã L.
+ Một phần thửa 9, 10 (loại đất Muối), một phần thửa 12 (loại đất MN/hg), thửa 13, 14, 15, 16 (loại đất Hg/b), một phần thửa 17, 20 (loại đất Hg/b), tờ bản đồ 34 xã L.
Hiện trạng hiện nay: Ruộng muối, nhà lá mái tôn (giống hiện trạng theo Biên bản đo đạc ngày 20/10/2016 do Công ty TNHH MTV đầu tư phát triển đo đạc bản đồ Phương Nam lập).
- Về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 được Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt tại Quyết định số 2357/QĐ-UBND ngày 16/5/2014, thì khu đất ông H xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được bố trí đất sản xuất kinh doanh, đất thể dục thể thao, đất văn hóa, đất ở và đường giao thông dự kiến. Đối với quy hoạch chi tiết xây dựng 1/2000 khu du lịch nhà vườn Sadeco, được bố trí là đất công trình công cộng, đất cây xanh, đất ở và đường giao thông dự kiến.
- Ý kiến Ủy ban nhân dân huyện:
Khu đất ông H xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc là đất công do Ủy ban nhân dân xã L quản lý. Năm 1994, ông H mượn 15.000m2/21.800,3m2 để sản xuất muối, năm 2004 ông H mở rộng diện tích lên 17.263m2/21.800,3m2 (thể hiện ở hồ sơ xin cấp quyền sử dụng đất vào năm 2006, đơn xin xác nhận diện tích đất sản xuất muối ngày 26/02/2005 của ông H). Năm 2007, Ủy ban nhân dân xã L có Công văn số 41/UBND-ĐC ngày 28/02/2007 yêu cầu ông H giao lại đất để xã quản lý theo chế độ đất công, nhưng ông không giao mà vẫn tiếp tục sử dụng. Năm 2009, Ủy ban nhân dân huyện giao phần diện tích đất ông H đang sử dụng cho Ủy ban nhân dân xã L quản lý theo Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009. Năm 2016, ông H tiếp tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 21.800,3m2.
Bên cạnh đó, trong tổng diện tích khu đất ông H xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có 3.740m2/21.800,3m2 Ủy ban nhân dân thành phố đã giải quyết khiếu nại dứt điểm về việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2007 (không xét cấp quyền sử dụng đất và xác định là đất do Ủy ban nhân dân xã L đang quản lý).
Căn cứ khoản 3 Điều 4 của Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai có quy định: “Chiếm đất là việc sử dụng đất mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc chủ sử dụng đất cho phép sử dụng hoặc việc sử dụng đất do được Nhà nước tạm giao hoặc mượn đất nhưng hết thời hạn tạm giao, mượn đất mà không trả lại đất”.
Từ những cơ sở trên, Ủy ban nhân dân huyện nhận thấy phần đất 21.800,3m2 nêu trên do Ủy ban nhân dân xã L quản lý, nhưng ông H chiếm và sử dụng từ năm 2007 đến nay, nên không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện đã ban hành Công văn số 3418/UBND ngày 18/8/2017 không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H là phù hợp với quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H1 có người đại diện theo ủy quyền là ông Vũ Khánh Tường V trình bày: Có cùng ý kiến với người khởi kiện, ngoài ra không có ý kiến nào khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị L1 có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, tại bản tự khai ngày 18/6/2021 bà L1 trình bày:
Bà đề nghị Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H với điều kiện sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông H phải tặng cho cháu bà là Trần Văn T1 300m2 trên thửa đất đó. Ngoài ra bà L1 không còn ý kiến nào khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân xã L có người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Vĩnh Lợi, tại Văn bản số 343/UBND ngày 28/3/2022 Ủy ban nhân dân xã L trình bày:
Diện tích đất mà ông H xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc là đất công do Ủy ban nhân dân xã L quản lý, năm 1994 ông H mượn 15.000m2/21.800,3m2 để sản xuất muối. Năm 2004, ông H mở rộng diện tích lên 17.263m2/21800,3m2 (thể hiện ở hồ sơ xin cấp quyền sử dụng đất vào năm 2006, đơn xin xác nhận diện tích đất sản xuất muối ngày 26/02/2005 của ông H). Năm 2007, Ủy ban nhân dân xã L có Công văn số 41/UBND-ĐC ngày 28/02/2007 yêu cầu ông H giao lại đất để xã quản lý theo chế độ đất công, nhưng ông H vẫn tiếp tục sử dụng. Năm 2009, Ủy ban nhân dân huyện giao phần diện tích đất ông H đang sử dụng cho Ủy ban nhân dân xã L quản lý theo Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009. Năm 2016, ông H tiếp tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 21.800,3m2 .
Bên cạnh đó trong trong tổng diện tích khu đất ông H xin cấp quyền sử dụng đất có 3.740m2/21.800,3m2 Ủy ban nhân dân Thành phố đã giải quyết khiếu nại của ông H dứt điểm về việc xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2007 (không xét cấp quyền sử dụng đất và xác định là đất do Ủy ban nhân dân xã L quản lý).
Căn cứ vào khoản 3 Điều 4 của Nghị định 182/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có quy định: “Chiếm đất là việc sử dụng đất mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc chủ sử dụng đất cho phép sử dụng hoặc việc sử dụng do được Nhà nước tạm giao hoặc cho nượn nhưng hết thời hạn tạm giao, mượn đất mà không trả lại đất”.
Do đó, ngày 18/8/2017 Ủy ban nhân dân huyện ban hành Công văn số 3418/UBND không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H và ngày 08/4/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện ban hành Quyết định số 345/QĐ- UBND không chấp nhận đơn khiếu nại của ông H là đúng theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 1219/2022/HC-ST ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, điểm g khoản 1 Điều 143, khoản 1 Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 206 và Điều 348 của Luật Tố tụng Hành chính;
Căn cứ vào nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu hủy Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009 của Ủy ban nhân dân huyện C về phê duyệt số liệu diện tích đất do Nhà nước trực tiếp quản lý thuộc xã L của ông Tạ Văn H.
2. Không chấp nhận những yêu cầu khởi kiện còn lại của ông H về:
- Hủy Văn bản số 3418/UBND ngày 18/8/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về trả lời hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của công dân.
- Hủy Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 08/4/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về giải quyết đơn khiếu nại của ông Tạ Văn H.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/8/2022 người khởi kiện ông Tạ Văn H có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, người khởi kiện ông Tạ Văn H có người đại diện theo ủy quyền là bà Lê Thị Kim L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị sửa bản án sơ thẩm.
Bà Lê Thị Kim L trình bày: Ông H khai thác các diện tích đất khác nhau trong đó có 1 phần diện tích mà bà L1 bỏ trống. Ông H có thực hiện các nghĩa vụ về thuế đối với Nhà nước. Theo tài liệu 02/CT-UB/1992 và tài liệu đo đạc 2005 đều ghi nhận người sử dụng đất là Tạ Văn H, ông H sử dụng đất liên tục, ổn định không ai tranh chấp từ năm 1992. Biên bản làm việc với phòng Tài nguyên và môi trường ngày 28/4/2006 thì ông H không biết đọc, biết viết nên chỉ ký và ghi tên chứ không biết biên bản ghi nội dung gì, không có ai đọc lại cho ông H. Ông H chỉ hiểu là ông mượn một phần đất của bà L1, nếu Ủy ban nhân dân xã L cho rằng cho ông H mượn hoặc thuê đất thì phải có hợp đồng để xuất trình. Dự án Sabeco không có làm nên cho rằng là đất Nhà nước, đất công mà ghép vào dự án để không cấp giấy chứng nhận cho ông H là không đúng pháp luật. Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện là bà Nguyễn Thị Linh P trình bày: Diện tích đất mà ông H xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nguồn gốc là đất công của Nhà nước do Ủy ban nhân dân xã L quản lý, ông H chiếm sử dụng cho nên không đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tất cả tài liệu, hồ sơ đã nộp đầy đủ từ cấp sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hành chính 2015 và tuân thủ đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.
Về nội dung: Nguồn gốc đất là Nhà nước quản lý giao cho Ủy ban nhân dân xã L do ông H là người sử dụng nên yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông H là không đủ điều kiện cấp giấy theo quy định nên kháng cáo là không có cơ sở, đồng thời ông H có kháng cáo nhưng không có chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Do đó Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Tạ Văn H là có căn cứ, yêu cầu kháng cáo không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Tạ Văn H, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của người khởi kiện ông Tạ Văn H trong hạn luật định, hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo:
[2.1] Về nội dung vụ án, ông Tạ Văn H yêu cầu:
+ Hủy Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009 của Ủy ban nhân dân huyện C về phê duyệt số liệu diện tích đất do Nhà nước trực tiếp quản lý thuộc xã L;
+ Hủy Văn bản số 3418/UBND ngày 18/8/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về trả lời hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của công dân;
+ Hủy Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 08/4/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về giải quyết đơn khiếu nại của ông Tạ Văn H;
+ Buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông đối với miếng đất thuộc các tờ bản đồ số 33, 34 một phần các thửa 34, 9, 10, 12, 17, 20, 13, 14, 15 và 16 mà ông đã khai hoang từ năm 1992 và sản xuất muối liên tục đến nay.
[2.2] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và hình thức ban hành quyết định bị kiện:
Văn bản số 3418/UBND ngày 18/8/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về trả lời hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của công dân và Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 08/4/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về giải quyết đơn khiếu nại của ông Tạ Văn H đã được ban hành đúng theo quy định của pháp luật.
[2.3] Về nội dung:
Theo biên bản tiếp xúc với ông H do Phòng Tài nguyên và Môi trường lập ngày 28/4/2006 và đơn xin xác nhận diện tích đất sản xuất muối ngày 26/02/2005 của ông H đã thừa nhận đất do ông khai hoang và sử dụng từ năm 1992 đến năm 1994 ông được Ủy ban nhân dân xã L cho mượn để xản xuất muối.
Mặt khác, toàn bộ diện tích đất mà ông H yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thuộc một phần các thửa 34, 9, 10, 12, 17, 20, 13, 14, 15 và 16 tờ bản đồ số 33, 34 đều đã được phê duyệt số liệu diện tích đất do Nhà nước trực tiếp quản lý thuộc xã L theo Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009 của Ủy ban nhân dân huyện C đang có hiệu lực pháp luật.
Do đó yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của ông H là không có cơ sở.
Từ đó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C đã ban hành Văn bản số 3418/UBND ngày 18/8/2017 trả lời ông H không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 08/4/2019 về giải quyết đơn khiếu nại của ông Tạ Văn H là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.
Do các yêu cầu trên không được chấp nhận, nên yêu cầu của ông H về việc buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp quyền sử dụng đất cho miếng đất thuộc tờ bản đồ số 33, 34 một phần thửa 34, 9, 10, 12, 17, 20, thửa 13, 14, 15, 16 do ông H khai hoang từ năm 1992 và sản xuất muối liên tục cho đến nay cũng không có cơ sở để xem xét.
Do đó Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tạ Văn H là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người khởi kiện ông Tạ Văn H phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng Hành chính 2015; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Tạ Văn H.
Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 1219/2022/HC-ST ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên xử :
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu hủy Quyết định số 815/QĐ-UBND ngày 17/8/2009 của Ủy ban nhân dân huyện C về phê duyệt số liệu diện tích đất do Nhà nước trực tiếp quản lý thuộc xã L của ông Tạ Văn H.
2. Không chấp nhận những yêu cầu khởi kiện còn lại của ông H về:
- Hủy Văn bản số 3418/UBND ngày 18/8/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về trả lời hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của công dân.
- Hủy Quyết định số 345/QĐ-UBND ngày 08/4/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về giải quyết đơn khiếu nại của ông Tạ Văn H.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Án phí hành chính phúc thẩm: Buộc ông Tạ Văn H phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn) đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0003167 ngày 12/10/2022 tại Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính quản lý đất đai số 196/2023/HC-PT
Số hiệu: | 196/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 29/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về