Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại số 10/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 10/2023/HC-PT NGÀY 06/01/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

Ngày 06 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số496/2022/TLPT-HCngày 22 tháng 8 năm 2022 về “Khiếu kiện Quyết định hành chính, hành vi hành chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.

Do bản án hành chính số 02/2022/HC- ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ bị kháng cáo, Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 656/2022/QĐPT-HC ngày 27 tháng 10 năm 2022, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1953, (vắng mặt). Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Nguyễn Minh L, sinh năm 1964 và ông Nguyễn Hoàng Trung K, sinh năm 1990 (văn bản ủy quyền ngày 17/12/2021), (Có mặt).

Cùng cư trú tại ấp A, thị trấn B, huyện C, thành phố Cần Thơ.

- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Thanh P – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện: Ông Lê Tấn T, (có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty cổ phần Đ Trụ sở: Tầng A, số B, đường C, khu dân cư D, phường E, quận F, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Việt H – Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trường T, sinh năm 1961; cư trú số A, đường B, phường C, quận D, thành phố Cần Thơ (văn bản ủy quyền ngày 26/5/2021). (Vắng mặt).

Người kháng cáo: Ông Nguyễn Hoàng V

NỘI DUNG VỤ ÁN

Phần trình bày của người khởi kiện ông Nguyễn Hoàng V theo đơn khởi kiện ngày 11/3/2021và lời trình bày của người đại diện ông V trong quá trình tố tụng như sau:

Người khởi kiện có 02 phần đất tọa lạc tại ấp A, thị trấn B, huyện C, thành phố Cần Thơ bị ảnh hưởng bởi Dự án Khu đô thị mới huyện T.

Ngày 05/12/2016, Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Thông báo thu hồi đất số 2404/TB-UBND về việc thu hồi đất cặp lề lộ đường tỉnh 922 có diện tích 33m2, bên trái hướng Tắc Cà Di – Xẽo Sào (phần đất này ông Nguyễn Hoàng V sử dụng từ năm 1995 và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) – sau đây gọi tắt là Thông báo thu hồi đất số 2404/TB-UBND.

Ngày 05/12/2017, Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 5354/QĐ-UBND về việc thu hồi đất có diện tích là 3.004,5m2 (loại đất lúa), thuộc thửa đất số 88, tờ bản đồ số 35, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01115 của ông Nguyễn Hoàng V – sau đây gọi tắt là Quyết định số 5354/QĐ-UBND.

Ngày 27/12/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 5269/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V đối với thửa đất số 88, diện tích là 3.004,5m2 (loại đất lúa) thuộc tờ bản đồ số 35, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01115. Thời hạn thực hiện cưỡng chế thu hồi đất là ngày 15 tháng 01 năm 2019 – sau đây gọi tắt là Quyết định số 5269/QĐ-UBND.

Ngày 07/01/2019, người khởi kiện có làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T yêu cầu thu hồi và hủy Quyết định số 5269/QĐ-UBND. Ngày 13/6/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 1972/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V với nội dung: “Không công nhận nội dung khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V yêu cầu thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018” – sau đây gọi tắt là Quyết định số 1972/QĐ- UBND.

Không đồng ý với Quyết định số 1972/QĐ-UBND, người khởi kiện tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ. Ngày 18/6/2020, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ ban hành Quyết định số 1211/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V với nội dung: “Công nhận và giữ nguyên nội dung Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 13/6/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T; Không chấp nhận nội dung khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V về yêu cầu thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018” – sau đây gọi tắt là Quyết định số 1972/QĐ-UBND.

Ngày 15/01/2019, Ban cưỡng chế thực hiện cưỡng chế thu hồi đất theo Quyết định số 5269/QĐ-UBND.

Cùng ngày 15/01/2019, ông Nguyễn Hoàng V gởi đơn khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T yêu cầu thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 5269/QĐ-UBND.

Nay, người khởi kiện yêu cầu:

- Hủy Quyết định số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V;

Tuyên hành vi cưỡng chế thu hồi đất ngày 15/01/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T thực hiện là trái pháp luật. Đồng thời, buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế thu hồi đất gây ra với tổng số tiền là 13.000.000.000 đồng (mười ba tỷ đồng) gồm: thiệt hại về vật chất là 12.000.000.000 đồng (các chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không được hưởng, mất thu nhập mùa vụ cây ăn quả và chăn nuôi, cho thuê nhà trọ); thiệt hại về tinh thần là 1.000.000.000 đồng (tổn thất về tinh thần, uy tín, danh dự dẫn đến đột quỵ).

Những căn cứ mà người khởi kiện yêu cầu:

Đối với yêu cầu hủy Quyết định số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018: vào ngày 08/01/2019, gia đình chúng tôi đã thống nhất ban giao mặt bằng để được hưởng các ưu đãi của Dự án. Ngày 11/01/2019, gia đình tôi thực hiện việc giao mặt bằng nhưng ông Nguyễn Thành U – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T – Chủ tịch Hội đồng cưỡng chế lại tự ý bỏ về không tiếp nhận mặt bằng mà gia đình đã đồng ý giao. Đến ngày 15/01/2019 lại tổ chức thực hiện cưỡng chế thu hồi đất là sai trình tự, thủ tục cưỡng chế.

Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại: vì thực hiện cưỡng chế thu hồi đất không đúng trình tự quy định của pháp luật nên gây ra những thiệt hại về tinh thần và vật chất nên phải bồi thường số tiền 13.000.000.000 đồng (mười ba tỷ đồng). Trong đó, bồi thường thiệt hại về tinh thần do ảnh hưởng về uy tín và danh dự là 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) và bồi thường thiệt hại về vật chất do bị mất các chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, mất thu nhập mùa vụ cây ăn quả, chăn nuôi, cho thuê nhà trọ là 12.000.000.000 đồng (mười hai tỷ đồng).

Phần trình bày của người bị kiện:

Ngày 13/7/2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ ban hành Quyết định số 2231/QĐ-UBND chấp thuận Nhà đầu tư Công ty Cổ phần Tư vấn Thiết kế Xây dựng Cadif – số A, đường B, phường C, quận D, thành phố Cần Thơ; tên dự án đầu tư: Khu đô thị mới huyện T; địa điểm thực hiện dự án: ấp Thới Thuận B, thị trấn Thới Lai, huyện T; diện tích sử dụng đất khoảng 9,51 ha; tổng vốn đầu tư của dự án:

103.716.000.000 đồng. Mục tiêu của dự án là hoàn thiện nhu cầu phát triển đô thị của huyện Thới Lai, thúc đẩy kinh tế và an sinh xã hội.

Ngày 05/10/2016, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 3002/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 Khu đô thị mới huyện T.

Ngày 05/12/2016, Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Thông báo số 2404/TB-UBND về việc thông báo thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới huyện T (các hộ có đất cặp lề lộ). Thông báo thu hồi diện tích đất 33m2 này được triển khai đến ông Nguyễn Hoàng V vào ngày 07/12/2016.

Cùng ngày 05/12/2016, Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số5354/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V có diện tích 3.004,5m2(loại đất lúa), thuộc thửa đất số 88, tờ bản đồ số 35, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01115 của ông Nguyễn Hoàng V.

Ngày 29/6/2017, Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 3218/QĐ-UBND về việc phê duyệt chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Dự án Khu đô thị mới huyện Thới Lai tại ấp A, thị trấn B, huyện C, thành phố Cần Thơ.

Ngày 05/12/2017, Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 5357/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Dự án Khu đô thị mới huyện T; trong đó, ông Nguyễn Hoàng V được bồi thường, hỗ trợ 1.293.547.162 đồng (gồm tiền bồi thường về đất là 393.172.220 đồng, nhà, vật kiến trúc là 54.977.349 đồng, tiền bồi thường về hoa màu, mồ mả, vật nuôi là 272.547.592 đồng, tiền hỗ trợ di dời khác là 564.850.000 đồng).

Ngày 26/12/2018, Ủy ban nhân dân thị trấn Thới Lai, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc V Nam thị trấn Thới Lai và Chi nhánh Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Thới Lai có Biên bản vận động, thuyết phục ông Nguyễn Hoàng V giao phần đất bị thu hồi theo Thông báo thu hồi đất số 2404/TB-UBND và theo Quyết định số 5354/QĐ-UBND. Ông Nguyễn Hoàng N – người đại diện của ông Nguyễn Hoàng V - có ý kiến không đồng ý bàn giao đất cho Ủy ban nhân dân huyện T.

Ngày 27/12/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 5269/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V đối với thửa đất số 88, diện tích là 3.004,5m2 (loại đất lúa) thuộc tờ bản đồ số 35, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01115. Thời hạn thực hiện cưỡng chế thu hồi đất là ngày 15 tháng 01 năm 2019.

Ngày 28/12/2018, Ủy ban nhân dân huyện T có Biên bản triển khai Quyết định số 5269/QĐ-UBND cho ông Nguyễn Hoàng N – người đại diện của ông Nguyễn Hoàng V nhận - và thực hiện niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện B, thành phố Cần Thơ.

Ngày 04/01/2019, Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất tổ chức vận động, thuyết phục ông Nguyễn Hoàng V và gia đình chấp hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất, tháo dỡ, di dời tài sản trên đất bàn giao mặt bằng.

Ngày 07/01/2019, ông Nguyễn Hoàng V làm đơn khiếu nại yêu cầu thu hồi và hủy Quyết định số 5269/QĐ-UBND.

Ngày 11/01/2019, Ban thực hiện cưỡng chế tiếp tục vận động, thuyết phục ông Nguyễn Hoàng V cùng gia đình chấp hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất, tháo dỡ, di dời tài sản trên đất bàn giao mặt bằng. Gia đình ông Nguyễn Hoàng V đề nghị Hội đồng bồi thường và Công ty Cadif phải giải quyết thỏa đáng các yêu cầu, khiếu nại của gia đình thì mới giao mặt bằng, nếu không giải quyết thỏa đáng thì sẽ không giao.

Ngày 15/01/2019, ông Nguyễn Hoàng V gởi đơn khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T yêu cầu thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 5269/QĐ-UBND.

Ngày 13/6/2019, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 1972/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V (lần đầu) có nội dung: Không công nhận nội dung khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V yêu cầu thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 5269/QĐ-UBND vì không có cơ sở xem xét – sau đây gọi tắt là Quyết định số 1972/QĐ-UBND.

Không đồng ý nội dung giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, ông Nguyễn Hoàng V tiếp tục làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ.

Ngày 18/6/2020, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ ban hành Quyết định số 1211/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V có nội dung: “Công nhận và giữ nguyên nội dung Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 13/6/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V. Không chấp nhận nội dung khiếu nại của ông Nguyễn Hoàng V về yêu cầu thu hồi và hủy bỏ Quyết định số 5269/QĐ-UBND vì không có cơ sở xem xét.

Vì các căn cứ trên, người bị kiện không đồng ý các yêu cầu của người khởi kiện và giữ nguyên Quyết định số 5269/QĐ-UBND và không bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế thu hồi đất vào ngày 15/01/2019.

Phần trình bày của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Công ty cổ phần Đ đã có nhiều lần thỏa thuận với gia đình của ông Nguyễn Hoàng V là nếu gia đình ông V bàn giao mặt bằng cho Công ty thì Công ty sẽ thực hiện hỗ trợ giao 04 nền tái định, hỗ trợ mua thêm 05 nền tái định cư và 02 căn nhà phố liền kề mặt tiền đường tỉnh 922 nhưng phía gia đình người khởi kiện không hợp tác.

Tại bản án hành chính số02/2022/HC- ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơđãquyết định:

Áp dụng:- Điều 7 Khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, khoản 1 Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 của Luật tố tụng hành chính năm 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Nguyễn Hoàng V về việc hủy Quyết định số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V; về việc tuyên hành vi cưỡng chế thu hồi đất ngày 15/01/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T thực hiện là trái pháp luật; về việc buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế thu hồi đất gây ra với tổng số tiền là 13.000.000.000 đồng (mười ba tỷ đồng).

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 25/01/2022, ông Vcó đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.

Tại phiên tòa hôm nay, người đại diện của ông V vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Gia đình ông V đồng ý việc nhà nước thu hồi 3.004,5m2 nhưng yêu cầu UBND huyện và công ty Cadif thực hiện bồi thường, hỗ trợ như nội dung công ty trình bày ghi tại bản án sơ thẩm. Hiện tại gia đình ông V chưa nhận được các chế độ bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đề nghị UBND huyện và công ty Cadif giải quyết.

Ông T trình bày: Ý kiến của công ty tại bản án sơ thẩm thì UBND huyện không có ý kiến, đối với các nội dung ngoài quyết định cưỡng chế đề nghị không xem xét, việc thu hồi đất lúa theo quy định không được tái định cư. Việc công ty hỗ trợ về tái định cư, mua đất nên thì UBND huyện không có ý kiến, việc Chủ tịch UBND huyện ban hành quyết định cưỡng chế là đúng quy định. Đề nghị bác kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Cấp phúc thẩm và đương sự thực hiện đúng các quy định tố tụng, không vi phạm.

Về nội dung kháng cáo: Không có căn cứ xác định gia đình ông V tự nguyện giao đất trước khi cưỡng chế nên Chủ tịch UBND huyện ban hành quyết định cưỡng chế là đúng pháp luật, tòa sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính, bác kháng cáo của ông V; giữ nguyên phần quyết định của án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Ông V khởi kiện yêu cầu:

- Hủy Quyết định số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V;

-Tuyên hành vi cưỡng chế thu hồi đất ngày 15/01/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T thực hiện là trái pháp luật;

-Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế thu hồi đất gây ra với tổng số tiền là 13.000.000.000 đồng (mười ba tỷ đồng).

Ông V không khởi kiện quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.

Xét kháng cáo của ông V thì thấy:

[2]- Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành Quyết định số 5269/QĐ- UBND ngày 27/12/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V và về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thực hiện hành vi cưỡng chế thu hồi đất của Chủ tịch UBND huyện Thới Lai:

Ngày 05/12/2016, UBND huyện Thới Lai ban hành Quyết định số 5354/QĐ- UBND về việc thu hồi diện tích 3.004,5m2, đất thuộc thửa 88, tờ bản đồ 35, đất đã có giấy chứng nhận QSD đất đứng tên ông Nguyễn Hoàng V để thực hiện dự án Khu đô thị mới huyện Thới Lai.

Sau khi có quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho gia đình ông V nhưng gia đình ông V không khiếu nại hay khởi kiện ở tòa án đối vối các quyết định thu hồi đất, quyết định về bồi thường thiệt hại, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất, không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ theo thông báo của cơ quan chức năng. Trước khi ban hành quyết định cưỡng chế cũng như trước khi cưỡng chế, UBND thị trấn Thới Lai cùng các ban ngành đoàn thể đã có nhiều biên bản vận động, thuyết phục gia đình ông V bàn giao mặt bằng nhưng gia đình ông V không bàn giao mặt bằng theo quyết định thu hồi đất. Do đó Chủ tịch UBND huyện Thới Lai ban hành quyết định cưỡng chế số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018 và quyết định thành lập đoàn cưỡng chế thực hiện cưỡng chế quyết định thu hồi đất là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại điểm d khoản 2 Điều 69 Luật đất đai 2013 và khoản 2 Điều 11 Thông tư 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014.

[3]- Về nội dung Quyết định số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V và nội dung thực hiện hành vi cưỡng chế thu hồi đất của Chủ tịch UBND huyện Thới Lai:

Quyết định thu hồi đất số 5354/QĐ-UBND là quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đang có hiệu lực pháp luật thu hồi đất đối với diện tích 3.004,5m2, đất thuộc thửa 88, tờ bản đồ 35 của gia đình ông V. Gia đình ông V không thực hiện quyết định thu hồi đất, không bản giao mặt bằng theo quyết định thu hồi đất nên Chủ tịch UBND huyện Thới Lai ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và quyết định thành lập ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đối với diện tích 3.004,5m2, đất thuộc thửa 88, tờ bản đồ 35, đất đã có giấy chứng nhận QSD đất đứng tên ông Nguyễn Hoàng V để thực hiện dự án Khu đô thị mới huyện Thới Lai theo quyết định thu hồi đất là đúng quy định tại khoản 1 Điều 70, Điều 71 Luật đất đai 2013.

Lý do ông V khởi kiện: Ông V cho rằng là vào ngày 08/01/2019, gia đình ông đã thống nhất bàn giao mặt bằng để được hưởng các ưu đãi của Dự án (có lập biên bản của Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất- BL: 08). Ngày 11/01/2019, gia đình ông thực hiện việc giao mặt bằng trong buổi làm việc với Ban cưỡng chế đến vận động, thuyết phục gia đình ông V tháo dỡ di dời tài sản trên đất bàn giao mặt bằng nhưng ông Nguyễn Thành U- Phó Chủ tịch UBND huyện Thới Lai tự ý bỏ về không tiếp nhận mặt bằng mà gia đình ông V đồng ý giao.

Xét lý do ông V nêu ra ở trên thì thấy:

- Tại Biên bản vận động, thuyết phục gia đình ông V bàn giao mặt bằng ngày 08/01/2019 (BL: 08) thể hiện: Theo yêu cầu của gia đình ông V (gồm các con ông V và ông Phước đại diện cho ông V), công ty cadif đã đồng ý bán cho ông V 02 nền nhà mặt tiền tại vị trí đất thu hồi. Đối với các con ông V do không đủ điều kiện tái định cư tập trung thì công ty cadif thống nhất hỗ trợ tiền đất trên diện tích nhà ở không quá 60m2 + phần diện tích chênh lệch được tính theo giá của công ty cadif với điều kiện gia đình ông V phải bàn giao mặt bằng trước ngày 15/01/2019. Ông Nguyễn Hoàng P (đại diện cho ông V) trình bày cam kết đến ngày 10/01/2019 gia đình sẽ họp và trả lời cho UBND thị trấn Thới Lai.

Tại biên bản họp gia đình ông V lúc 14 giờ ngày 08/01/2019 có đại diện UBND thị trấn Thới Lai chứng kiến (BL: 03) thể hiện: Các thành viên gia đình thống nhất với nội dung nhà đầu tư công ty Cadif đã cam kết tại biên bản vận động giao đất ngày 08/01/2019, gia đình đồng ý giao 3.004,5m2 đất bị thu hồi. Tuy nhiên gia đình ông V đề nghị phần đất của bà Nguyễn Thị Kim K (nằm ngoài giấy chứng nhận QSD đất của ông V) bị thu hồi giáp tỉnh lộ 922 đã được giải quyết cấp 01 nền tái định cư, đề nghị cho mua thêm 01 nền nhà phố cặp tỉnh lộ 922 theo giá ban đầu của ông ty.

Tại biên bản vận động, thuyết phục ông V bàn giao mặt bằng ngày 11/01/2019 (BL: 95) thể hiện: Ông Nguyễn Hoàng Trung K (đại diện cho ông V) không đồng ý bàn giao mặt bằng vì ông cho rằng ông chưa nhận được tiền bồi thường. Ông Nguyễn Hoàng N (con ông V) trình bày: Gia đình ông V đồng ý bàn giao mặt bằng nếu như hội đồng bồi thường và công ty Cadif giải quyết cho gia đình ông V như trong biên bản họp gia đình ngày 08/01/2019. Nội dung biên bản ngày 11/01/2019 không thể hiện việc gia đình ông V đồng ý giao mặt bằng cho chính quyền tại buổi làm việc này, không có nội dung về việc ông U tự ý bỏ về không tiếp nhận mặt bằng của gia đình ông V giao mà toàn bộ các thành viên gia đình ông V có mặt trong buổi làm việc đã bỏ về không ký biên bản. Ông U là người kết luận buổi làm việc và ký biên bản này.

Như vậy, Căn cứ vào nội dung các biên bản vận động, thuyết phục gia đình ông V và nội dung biên bản họp gia đình của gia đình ông V nêu trên thì thấy gia đình ông V ngoài yêu cầu Hội đồng bồi thường và công ty Cadif thực hiện theo nội dung thống nhất tại biên bản vận động, thuyết phục ngày 08/01/2019 còn yêu cầu được mua thêm một nền nhà phố cặp tỉnh lộ 922 theo giá ban đầu của công ty thì gia đình ông V mới giao mặt bằng theo quyết định thu hồi đất. Không có việc gia đình ông V giao mặt bằng theo quyết định thu hồi đất tại buổi vận động, thuyết phục ngày 11/01/2019 của Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất.

Việc Chủ tịch UBND huyện Thới Lai ban hành Quyết định cưỡng chế và quyết định thành lập ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất, tổ chức cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất là đúng pháp luật. Vì vậy, không chấp nhận kháng cáo của ông V về hai nội dung khởi kiện này của ông.

[4]- Về yêu cầu bồi thường thiệt hại 13 tỷ đồng do việc cưỡng chế gây ra cho gia đình ông V:

Như nhận định trên, việc cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất của Chủ tịch UBND huyện Thới Lai là đúng pháp luật, không gây thiệt hại gì đối với gia đình ông V nên cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của ông V là có căn cứ. Về các chính sách bồi thường, hỗ trợ nếu gia đình ông V chưa nhận thì liên hệ cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định.

Ông V kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ cho yêu cầu của mình. Vì vậy, không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của ông V; giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm.

[5]- Án phí: Ông V phải chịu án phí phúc thẩm nhưng được miễn theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật tố tụng hành chính;

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng V; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm số 02/2022/HC- ST ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ như sau:

Căn cứ: - Điểm d khoản 2 Điều 69, khoản 1 Điều 70, Điều 71 Luật đất đai 2013 và khoản 2 Điều 11 Thông tư 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 - Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng V về yêu cầu:Hủy Quyết định số 5269/QĐ-UBND ngày 27/12/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T về việc cưỡng chế thu hồi đất của ông Nguyễn Hoàng V; về việc tuyên hành vi cưỡng chế thu hồi đất ngày 15/01/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T thực hiện là trái pháp luật; về việc buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cưỡng chế thu hồi đất gây ra với tổng số tiền là 13.000.000.000 đồng (mười ba tỷ đồng).

2- Về án phí: Ông Nguyễn Hoàng V phải chịu án phí sơ thẩm và án phí phúc thẩm nhưng được miễn toàn bộ.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính và yêu cầu bồi thường thiệt hại số 10/2023/HC-PT

Số hiệu:10/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 06/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về