Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 36/2023/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 36/2023/HC-ST NGÀY 26/04/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

 Ngày 26 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 120/2022/TLST-HC ngày 10 tháng 11 năm 2022, về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2023/QĐXXST-HC ngày 10 tháng 4 năm 2023, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Mỹ D, sinh năm 1990.

Địa chỉ: đường V, phường 10, quận 6, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Phạm Thị Minh H; sinh năm 1979. Địa chỉ: Đường H1, phường M, thành phố P, tỉnh B.

- Người bị kiện: Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh Q, chức vụ: Giám đốc.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Tấn T, chức vụ: Phó Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P,

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Tấn T, chức vụ: Phó Giám

2. Uỷ ban nhân dân thành phố P

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Nguyễn Hoàng T1, chức vụ: Chủ tịch.

3. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam.

Địa chỉ: Số 02 đường Láng Hạ, phường C, Quận Đ, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Vũ Thiện T2, chức vụ: Phó Giám đốc phụ trách Chi nhánh N

- Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Tại phiên tòa có mặt: bà Phạm Thị Minh H, ông Nguyễn Tấn T; còn lại vắng mặt và có văn bản đề nghị giải quyết vụ án vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện bà Nguyễn Thị Mỹ D và người đại diện hợp pháp bà Phạm Thị Minh H trình bày:

Bà Nguyễn Thị Mỹ D có nhận chuyển nhượng các quyền sử dụng đất gồm:

+ Thửa đất số 242A, tờ bản đồ số 01, diện tích 908 m2 tọa lạc tại xã Tiến Lợi, thành phố P, tỉnh B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 439091, Số vào sổ cấp GCN: 2410 QSDĐ/4718/QĐUBPT do UBND thành phố P cấp ngày 25/8/2004, cập nhật lần cuối ngày 25/01/2017 cho ông Trương Vĩnh P1.

+ Thửa đất số 242A, tờ bản đồ số 01, diện tích 909 m2 tọa lạc tại xã Tiến Lợi, thành phố P, tỉnh B theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 439093, Số vào sổ cấp GCN: 2414 QSDĐ/4718/QĐUBPT do UBND thành phố P cấp ngày 25/8/2004, cập nhật lần cuối ngày 25/01/2017 cho ông Trương Vĩnh P1.

Bà Nguyễn Thị Mỹ D nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thông qua đấu giá tại hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá ngày 26/12/2018 giữa Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam – Chi Nhánh N và bà Nguyễn Thị Mỹ D. Bà D đã thanh toán đầy đủ tiền cho Ngân Hàng. Ngày 23/01/2019, Ngân hàng đã bàn giao 02 giấy chứng nhận trên cho bà D để thực hiện thủ tục đăng ký biến động sang tên. Ngày 29/9/2019, bà D nộp hồ sơ tại bộ phận 01 của UBND thành phố P đăng ký biến động và đã nộp thuế chuyển nhượng bất động sản với số tiền 38.880.000đ và lệ phí trước bạ 9.720.000đ vào ngân sách nhà nước ngày 18/10/2019. Tuy nhiên, ngày 16/10/2022, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P, tỉnh B có công văn hoàn trả hồ sơ chuyển quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Mỹ D, nội dung công văn nêu : “Qua kiểm tra, 02 thửa đất ở tại nông thôn có nguồn gốc chuyển mục đích sử dụng đất không phù hợp quy hoạch theo bản đồ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 tại quyết định 3200/QĐ – UBND ngày 13/12/2013 của UBND tỉnh B đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt”.

Theo quy định tại Điều 167, Điều 168 Luật Đất đai thì người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại... khi có giấy chứng nhận. Theo quy định tại Điều 188, Điều 169 và Điều 191 Luật Đất đai thì trường hợp bà Nguyễn Thị Mỹ D đủ điều kiện để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nhưng Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P cho rằng đất có nguồn gốc chuyển mục đích không phù hợp quy hoạch 3200 để không thực hiện thủ tục hành chính đăng ký biến động vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà D là trái quy định tại điều 169, 188, 191 Luật Đất đai, hạn chế quyền của người sử dụng đất.

Bà D khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Công văn số 1577TB - CNVPĐKDĐPT ngày 06/10/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P; buộc Chi nhánh Văn phòng đất đai thành phố P, tỉnh B; Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B thực hiện đúng nhiệm vụ công vụ được giao: phải thực hiện thủ tục đăng ký biến động do nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Mỹ D theo điều 169,188, 191 Luật Đất đai năm 2013.

Người bị kiện Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B có ý kiến tại Văn bản số 2648/VPĐKĐĐ-ĐKCG ngày 27/12/2022.

Ngày 24/9/2019, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai P tiếp nhận hồ sơ trúng đấu giá quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Mỹ D (nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hợp đồng mua bán đấu giá từ ông Trương Vĩnh P1), đối với thửa đất số 1090 (đặt lại từ thửa 242A), tờ bản đồ số 06 (đặt lại từ tờ 01), diện tích 908 mỉ và thửa đất số 1091 (đặt lại từ thửa 242A), tờ bản đồ số 06 (đặt lại từ tờ 01), diện tích 909 m, đất ở nông thôn tại xã Tiến Lợi, thành phố P, theo Giấy chứng nhận số AA 439091 và số AA 439093 được UBND thành phố P cấp ngày 25/8/2004.

Qua kiểm tra, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai P nhận thấy 02 thửa đất ở tại nông thôn nêu trên có nguồn gốc chuyển mục đích sử dụng đất nhưng không phù hợp quy hoạch sử dụng đất (quy hoạch đất nông nghiệp, không phải quy hoạch đất ở) theo Bản đồ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 tại Quyết định số 3200/QĐ-UBND ngày 13/12/2013 của UBND tỉnh B.

Đối với nội dung vướng mắc nêu trên, UBND thành phố P đã có Báo cáo số 275/BC-UBND ngày 04/8/2020 báo cáo UBND tỉnh về tình hình thực hiện và khắc phục các sai phạm trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai, trật tự xây dựng; đến nay vẫn chưa có ý kiến chỉ đạo thực hiện. Do đó, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai P đã có Thông báo số 1577/TB- CNVPĐKĐĐPT ngày 06/12/2022 về việc thông báo cho bà Nguyễn Thị Mỹ D được rõ nội dung vướng mắc và tạm dừng giải quyết hồ sơ của bà. Sau khi có ý kiến giải quyết của UBND thành phố P, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai P sẽ tiếp tục giải quyết hồ sơ nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Mỹ D theo quy định.

Văn phòng Đăng ký đất đai xét thấy việc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai P ban hành Thông báo số 1577/TB-CNVPĐKĐĐPT ngày 06/12/2022 gửi bà Nguyễn Thị Mỹ D được biết việc sai sót trong quá trình giải quyết hồ sơ chuyển mục đích trước đây và tạm dừng giải quyết hồ sơ hồ sơ trúng đấu giá quyền sử dụng đất của bà D là có cơ sở. Sau khi UBND thành phố P xử lý xong việc sai sót nêu trên thì Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai P sẽ thông báo đến bà D nộp lại hồ sơ và giải quyết theo quy định.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P có ý kiến tại văn bản 2471/VPĐKĐĐ-ĐKCG ngày 05/12/2022:

Ngày 24/9/2019, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P có tiếp nhận hồ sơ nhận chuyển nhượng (trúng đấu giá) quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Mỹ D. Ngày 08/10/2019, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P ban hành phiếu chuyển thông tin địa chính số 12143, 12143^/PCTTĐC gửi đến Chi Cục thuế thành phố P để xác định nghĩa vụ tài chính. Ngày 18/10/2019, bà Nguyễn Thị Mỹ D đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính và nộp biên lai nộp thuế số 0049981, số 0049983 cho Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P để thực hiện việc cấp đổi lại Giấy chứng nhận.

Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P đã luân chuyển hồ sơ nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị Mỹ D đến Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B ký cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, ngày 13/11/2019, Chi nhánh Văn phòng nhận được Công văn số 2391/VPĐKĐĐ- ĐKCG ngày 12/11/2019 của Văn phòng đăng ký đất đai tinh B về việc chuyển trả hồ sơ chưa đủ điều kiện cấp đổi, cấp mới Giấy chứng nhận, trong đó có hồ sơ của bà Nguyễn Thị Mỹ D có ý kiến như sau: “.. Qua kiểm tra hồ sơ thì thuộc trường hợp nhận chuyển nhượng do Trúng đấu giá đối với tài sản xử lý nợ, Văn phòng Đăng ký đất đai yêu cầu Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P thực hiện đúng thủ tục theo quy định tại Khoản 8 Điều 7 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường", Ngày 07/8/2020, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P có Công văn số 4725/ CNVPĐKĐĐPT, về việc giải trình việc giải quyết hồ sơ hành chính của bà Nguyễn Thị Mỹ D gửi đến Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B ký cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, ngày 21/8/2020, Chi nhánh Văn phòng nhận được Công văn số 1911/VPĐKĐĐ- ĐKCG ngày 20/8/2022 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B về việc chuyển trả hồ sơ chưa đủ điều kiện cấp đổi, cấp mới Giấy chứng nhận đối với hồ sơ của bà Nguyễn Thị Mỹ D có ý kiến như sau: “Hồ sơ thuộc trường hợp nhận quyền sử dụng đất do trúng đấu giá đối với tài sản xử lý nợ. Tuy nhiên, các thửa đất có nguồn gốc từ việc chuyển mục đích sử dụng đất năm 2016. Do đó, Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh B yêu cầu Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P kiểm tra sự phù hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại thời điểm chuyển mục đích; Trường hợp, không phù hợp thì báo cáo UBND thành phố P giải quyết; ...”.

Sau khi Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P rà soát, kiểm tra lại hồ sơ theo nội dung Công văn số 191/VPĐKĐĐ-ĐKCG ngày 20/8/2020, Chi nhánh Văn phòng nhận thấy phần diện tích đất ở tại nông thôn 908.0 m (thửa 1090) và 909.0m (thửa 1090) có nguồn gốc chuyển mục đích sử dụng đất nhưng không phù hợp quy hoạch theo quy hoạch sử dụng đất 3200 đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (Căn cứ quy hoạch số 3200/QĐ-UBND ngày 13/12/2013 của UBND tỉnh B về việc xét duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 thì vị trí thửa đất thuộc quy hoạch là đất nông nghiệp).

Ngày 06/10/2022, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P có Công văn số 1577/CNVPĐKĐĐPT về việc phúc đáp hồ sơ hành chính cho bà Nguyễn Thị Mỹ D.

2. Ủy ban nhân dân thành phố P không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ D gửi Tòa án.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội thẩm - nhân dân và Thư ký đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính; Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ D, hủy Công văn số 1577/TB - CNVPĐKDĐPT ngày 06/10/2022 về việc thông báo kết quả hoàn trả hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Mỹ D của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P và buộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa hôm váng nay, mặt bà Nguyễn Thị Mỹ D, nhưng có người đại diện theo ủy quyền là bà Phạm Thị Minh H tham gia phiên tòa; vắng mặt người đại diện hợp pháp của người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thành phố P, nhưng đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng này theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 58 Luật Tố tụng hành chính như đề nghị của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên tòa.

[2] Về quyền khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Mỹ D là người mua tài sản đấu giá đối với các thửa đất thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AA 439091, ngày 25/8/2004 và AA 439093, ngày 25/8/2004. Ngày 29/9/2019, bà Nguyễn Thị Mỹ D nộp hồ sơ đăng ký biến động sang tên bả. Ngày 16/10/2022, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố P có văn bản số 1577 TB CNVPĐKDĐPT ngày 06/10/2022 về việc thông báo kết quả hoàn trả hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Mỹ D. Việc trả hồ sơ, từ chối đăng ký biến động sang tên bà Nguyễn Thị Mỹ D đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà nên bà có quyền khởi kiện đối với Văn bản số 1577/TB - CNVPĐKDĐPT ngày 06/10/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P.

[3] Về thời hiệu khởi kiện: Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P ban hành Văn bản số 1577/TB - CNVPĐKDĐPT ngày 06/10/2022. Đến ngày 26/10/2022, bà Nguyễn Thị Mỹ D nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh B là còn thời hiệu giải quyết theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

[4] Về nội dung quyết định hành chính bị khiếu kiện, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[4.1] Bà Nguyễn Thị Mỹ D nhận chuyển nhượng các diện tích đất nêu trên từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh N thông qua Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá được Văn phòng công chứng Trương Văn Cương công chứng số 001229, quyển số: 02TP/CC- SCC/HĐGD ngày 23/01/2019. Ngày 18/10/2019, bà Nguyễn Thị Mỹ D đã hoàn thành nghĩa vụ tải chính và nộp biên lai thuế số 0049981, 0049983 cho Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P.

Điều 188 Luật Đất đai quy định người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

b) Đất không có tranh chấp;

c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

d) Trong thời hạn sử dụng đất.

Các thửa đất bà D nhận chuyển nhượng có đủ tất cả các điều kiện nêu trên. Do đó, việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Mỹ D là phù hợp quy định pháp luật.

[4.2] Quyết định số 202/QĐ-UBND ngày 25/3/2016 của Ủy ban nhân dân thành phố P cho phép bà Trần Thị Thu Hằng chuyển mục đích sử dụng 908m” từ đất trồng cây lâu năm sang đất ở tại nông thôn và Quyết định số 198/QĐ- UBND ngày 25/3/2016 của Ủy ban nhân dân thành phố P cho phép bà Đồng Thị Mười chuyển mục đích sử dụng 909m từ đất trồng cây lâu nằm sang đất ở tại nông thôn. Đến thời điểm này không có văn bản nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận việc cho chuyển mục đích sử dụng đất theo các quyết định trên là không đúng quy định của pháp luật và hủy bỏ Quyết định này.

[5] Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh N và bà Nguyễn Thị Mỹ D là đảm bảo quy định của pháp luật và thuộc trường hợp bắt buộc phải đăng ký biến động đất đai theo quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai. Khi làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất, bà Nguyễn Thị Mỹ D đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính cho nhà nước. Mặt khác, việc đăng ký biến động sang tên người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ thay đổi tên người chủ sử dụng thửa đất, không làm thay đổi các thông tin khác đối với thửa đất. Việc trả lại hồ sơ đăng ký biến động của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P tại Văn bản số 1577/TB - CNVPĐKDĐPT ngày 06/10/2022, nhưng Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P lại không viện dẫn được căn cứ pháp lý nào. Do vậy, Văn bản này không có căn cứ pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của người khởi kiện nên phải được hủy bỏ. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát.

[6] Về án phí: Do yêu cầu của người khởi kiện được chấp nhận nên người bị kiện Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Bà Nguyễn Thị Mỹ D được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm c khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính; Khoản 1, điểm a khoản 4 Điều 95, khoản 1 Điều 168, Điều 169, 188, 191 Luật Đất đai;

- Khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ D.

- Hủy Văn bản số 1577/TB-CNVPĐKĐĐPT ngày 06/10/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P.

- Buộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai P phải thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong việc giải quyết hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Mỹ D theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí hành chính sơ thẩm:

- Buộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh B phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hành chính sơ thẩm.

- Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Mỹ D 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008451 ngày 09/11/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh B.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/4/2023); đương sự vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 36/2023/HC-ST

Số hiệu:36/2023/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 26/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về