Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất số 183/2021/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 183/2021/HC-PT NGÀY 09/04/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI THU HỒI ĐẤT

Ngày 09 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 689/2020/TLPT-HC ngày 02 tháng 12 năm 2020 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 251/2021/QĐPT-HC ngày 22 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1953 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn LC 2, xã NS, huyện NS1, tỉnh Ninh Thuận.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân huyện NS1, tỉnh Ninh Thuận Người đại diện theo pháp luật: ông Võ Đình V - Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện NS1, tỉnh Ninh Thuận.

Người đại diện theo ủy quyền: Ổng Nguyễn Đức H - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện NS1, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Đỗ Thanh L, sinh năm 1967 – Giám đốc Trung tâm phát triển Quỹ đất huyện NS1 (có mặt).

3. Kháng cáo, kháng nghị: Do có kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Văn H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản đối thoại và tại phiên tòa người khởi kiện ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ông bị Nhà nước thu hồi toàn bộ nhà và đất để thực hiện dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020, đoạn qua huyện NS1, nhưng Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) huyện NS1 bồi thường, hỗ trợ về tài sản trên đất cho ông là không đúng quy định pháp luật. Bởi vì, phần nhà nằm trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27 UBND huyện NS1 chỉ hỗ trợ cho ông 30% đối với phần tài sản nằm trong hành lang bảo vệ, nhưng theo Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định xây dựng - trong hành lang bảo vệ được bồi thường 100%; Phần đất nâng nền cao bao quanh khuôn viên và nền nhà thì ông không được UBND huyện NS1 bồi thường, hỗ trợ.

Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 của UBND huyện NS1 để bồi thường cho ông theo đúng quy định của pháp luật: bồi thường 100% đối với phần nhà năm trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27 và bồi thường phần đất nâng nền cao bao quanh khuôn viên, nền nhà.

Tại bản trình bày, biên bản đối thoại và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện là ông Nguyễn Đức H trình bày:

Thực hiện chủ trương Chính phủ, UBND tỉnh về việc thu hồi đất để giải phóng mặt bằng, thực hiện dự án đầu tư xây dựng tuyên đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020 đoạn qua tỉnh Ninh Thuận; UBND huyện NS1 đã ban hành Thông báo số 260/TB-UBND ngày 10/7/2019 thu hồi đất để thực hiện Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020 đoạn qua tỉnh Ninh Thuận; trong đó có diện tích đất 126,3m2 của hộ gia đình ông Nguyễn Văn H đang sử dụng tại xã NS đối với thửa đất số 759, tờ bản đồ số 37, diện tích 126,3m2.

Trên cơ sở Thông báo thu hồi đất của UBND huyện NS1 và bản tự kê khai hiện trạng đất của ông H; ngày 02/8/2019 Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện NS1 phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan tiến hành kiểm kê, đo đạc hiện trường trên diện tích đất thu hồi do ông Nguyễn Văn H đang sử dụng.

Ngày 21/10/2019, UBND xã NS xác nhận nguồn gốc sử dụng đất và các tài sản liên quan đối với diện tích bị thu hồi do ông H đang sử dụng, cụ thể:

Đất đã được UBND huyện NS1 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sổ BD 018974 ngày 02/10/2010, diện tích 126,3 m2 ở nông thôn (trong đó có 98,lm2 đất thuộc Hành lang bảo vệ Quốc lộ 27); Tài sản trên đất có một phần nằm trong Hành lang bảo vệ Quốc lộ 27 (nhà cấp 4C: 4,7m2; nhà cấp 4A:

20,0m2; nhà tạm: 20,0m2), được xây dựng vào năm 2008.

Căn cứ Biên bản kiểm kê hiện trạng sử dụng và các tài sản khác gắn liền với đất; Bản xác nhận nguồn gốc sử dụng đất và các tài sản liên quan và các quy định của pháp luật, ngày 26/12/2019, UBND huyện ban hành Quyết định số 3129/QĐ- UBND về việc phê duvệt Phương án và kinh phí bồi thường, hỗ trợ cho 37 hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất để giải phóng mặt bằng thực hiện Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020 đoạn qua huyện NS1 (trong đó có hộ ông Nguyễn Văn H); Quyết định số 3165/QĐ-UBND về việc thu hồi đất để giải phóng mặt bằng thực hiện Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020 đoạn qua huyện NS1; và ngày 27/12/2019, UBND huyện ban hành Quyết định số 3206/QĐ-UBND về việc bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông Nguyễn Văn H để giải phóng mặt băng thực hiện Dự án đầu tư xây dựng tuyên đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020 đoạn qua huyện NS1, với số tiền bồi thường, hỗ trợ 410.331.286đ, cụ thể về đất:

Căn cứ Điều 75 Luật đất đai 2013, diện tích đất bị thu hồi của hộ ông Nguyễn Văn H đã được UBND huyện NS1 cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đủ điều kiện bồi thường theo quy định; về phần tài sản nằm ngoài hành lang bảo vệ Quốc lộ 27: Căn cứ quyết định - tại điểm a khoản 1, điều 21 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận kèm theo Quyết định số 64/2016/QĐ-UBND ngày 26/9/2016 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận: “Nhà, công trình khác được phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng trên đất có đủ điều kiện được bồi thường về đất thì được bồi thường theo Quy định này”, ông H được bồi thường theo quy định; về phần tài sản nằm trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27: Vào ngày 12/10/1991, UBND huyện NS1 ban hành các Quyết định công bố và cắm môc lộ giới đối với Quốc lộ 27, tính từ tâm ra mỗi bên 27m. Tài sản trên đất (nhà câp 4C: 4,7m2; nhà cấp 4A: 20,0m2; nhà tạm: 20,0m2) do ông H sở hữu được đã xây dựng vào năm 2008, trên phần diện tích đất thuộc Hành lang bảo vệ quôc lộ 27 là xây dựng trái phép vì xây dựng sau khi được UBND huỵện cắm môc lộ giới.

Căn cứ quy định tại điểm a khoản 2 điều 21 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận kèm theo Quyết định số 64/2016/QĐ-UBND ngày 26/9/2016 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận: “ Nhà, công trình khác không được phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng nhưng xây dựng trên đất có đủ điều kiện được bồi thường về đất và xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì được bồi thường theo quy định này”. Như vậy, đối với trường hợp của ông H, không đủ điều kiện bồi thường theo quy định. Tuy nhiên, áp dụng Văn bản số 4936/UBND-TCDNC ngày 5 tháng 12 năm 2019 của Ưỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận về việc áp dụng một số chính sách bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án trên địa bàn tỉnh theo kểt luận của Ban thường vụ Tỉnh uỷ tại thông báo số 678-TB/TU, Áp dụng tại điểm 7, văn bản số 53 ngày 31/10/2019 của Đảng đoàn HĐND tỉnh “V/v ý kiến đối với một số kiến nghị của UBND tỉnh về chủ trương áp dụng chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng”: “ Đối với nhà ở, vật kiến trúc trên đất: Chấp thuận hỗ trợ 30% giá trị nhà ở, vật kiến trúc đối với các hộ gia đình, cá nhân xây dựng trái phép sau ngày 01/7/2004”. Vì vậy, UBND huyện NS1 hỗ trợ 30% đối với phần tài sản nằm trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27, là phù hợp với quy định của pháp luật và chủ trương của UBND tỉnh Ninh Thuận.

Như vậy, việc UBND huyện ban hành Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 về việc bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông Nguyễn Văn H để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đầu tư xây dụng tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020 đoạn qua huyện NS1, là phù hợp với quy định của pháp luật và chủ trương của UBND tỉnh Ninh Thuận. Do đó, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông H.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 25 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định như sau:

Căn cứ vào: Khoản 1, 2 điều 3; khoản 1 điều 30; khoản 4 điều 32; điều 116; điều 164; điểm a khoản 2 điều 193; điều 194; điều 206; điều 213; điều 358; điều 359 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015; Điều 66, điều 69 Luật đất đai năm 2013; Điều 43 Luật Giao thông đường bộ năm 2008; Nghị định 43/2014/NĐ - CP và Nghị định 47/2014/NĐ-CP cùng ngày 15/5/2014; Điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về yêu cầu hủy Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 của Ủy ban nhân dân huyện NS1 về việc bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông Nguyễn Văn H để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020, đoạn qua huyện NS1.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Văn H kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người khởi kiện, người bị kiện được triệu tập hợp lệ lần thứ hai và xin xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị kiện ông Đỗ Thanh Liêm trình bày: Ủy ban nhân dân huyện NS1 đã thực hiện đầy đủ công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đối với ông Nguyễn Văn H. Uỷ ban bảo lưu toàn bộ ý kiến đã trình bày tại cấp sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã tiến hành đúng theo qui định của luật tố tụng hiện hành, không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Xét về nội dung vụ án: Quyết định 3206/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân huyện NS1 có hình thức, trình tự, thủ tục thỏa mãn quy định pháp luật. Về nội dung: Theo tinh thần của Nghị định 47/2014/NĐ-CP thì tùy theo tình hình thực tế mà mỗi địa phương có chính sách riêng”, từ đó Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận có chủ trương thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất quy định: “Chấp thuận hỗ trợ 80% giá trị nhà ở, vật kiến trúc đối với các hộ gia đình, cả nhân xây dựng trước ngày 01/7/2004. Chấp thuận hỗ trợ 30% giá nhà ở, vật kiến trúc đổi với các hộ gia đình, cá nhân xây dựng trái phép sau ngày 01/7/2004.” Do đó các tài sản nhà trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27 được UBND huyện NS1 hỗ trợ 30% là đúng quy định. Đối với phần đất nâng nền cao bao quanh khuôn viên và nền nhà: Ông H đã được bồi thường đủ các tài sản liệt kê có trên đất; phần diện tích đất bị thu hồi được bồi thường giá trị quyền sử dụng đối với đất ở và không thuộc đối tượng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại nên ông H không được bồi thường phần đất nâng nền. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử bác yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện, người bị kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật Tố tụng hành chính tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

Ông Nguyễn Văn H bị Nhà nước thu hồi toàn bộ nhà và đất để thực hiện dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020, đoạn qua huyện NS1. Ông H trình bày phần nhà nằm trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27 UBND huyện NS1 chỉ được UBND hỗ trợ 30% đối với phần tài sản nằm trong hành lang bảo vệ là không đúng quy định pháp luật. Vì vậy, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 của UBND huyện NS1 để bồi thường cho ông theo đúng quy định của pháp luật: bồi thường 100% đối với phần nhà năm trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27 và bồi thường phần đất nâng nền cao bao quanh khuôn viên, nền nhà.

Ủy ban nhân dân huyện NS1 trình bày: UBND huyện ban hành Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 là phù hợp với quy định của pháp luật và chủ trương của UBND tỉnh Ninh Thuận. Do đó, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông H.

[3] Nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm:

Về tính hợp pháp của quyết định hành chính số 3206/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 của Ủy ban nhân dân huyện NS1:

- Đối với tài sản nằm trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27 gồm: nhà cấp 4C diện tích 4,7m2; nhà cấp 4A diện tích 20,0m2; nhà tạm diện tích 20,0m2.

Căn cứ điều 43 Luật giao thông đường bộ năm 2008 quy định về phạm vi đất dành cho đường bộ thì người sử dụng đất không được xây dựng công trình khác trên diện tích thuộc phạm vi hành lang an toàn giao thông đường bộ như nhà cửa...Ngày 12/10/1991, UBND huyện NS1 ban hành quyết định 181/QĐ - UBND công bố và cắm mốc lộ giới đối với quốc lộ 27 “hành lang bảo vệ đường bộ tính từ chân mốc ra mỗi bên đường quốc lộ 27 là 20m, tính từ tâm ra mỗi bên 27m”. Tài sản trên đất gồm nhà cấp 4C diện tích 4,7m2; nhà cấp 4A diện tích 20,0m2; nhà tạm diện tích 20,0m2 do ông H sở hữu được xây dựng vào năm 2008 trên phần diện tích đất thuộc hành lang bảo vệ quốc lộ 27, xây dựng sau thời điểm được UBND huyện cắm mốc lộ giới, việc xây dựng này đã vi phạm khoản 2 điều 43 Luật giao thông đường bộ. Do phần tài sản này của ông H xây dựng trái phép nên theo quy định tại điều 92 Luật đất đai thì không được bồi thường về tài sản gắn liền với đất và tại điểm a khoản 2 điều 21 Quyết định số 64/2016/QĐ-UBND ngày 26/9/2016 của UBND tỉnh Ninh Thuận ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận quy định: “Nhà, công trình khác không được phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng nhưng xây dựng trên đất có đủ điều kiện được bồi thường về đất và xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì được bồi thường theo quy định nạy”. Tuy nhiên, theo tinh thần của Nghị định 47/2014/NĐ-CP “tùy theo tình hình thực tế mà mỗi địa phương có chính sách riêng”, từ đó Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận có chủ trương thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất quy định: “Chấp thuận hỗ trợ 80% giá trị nhà ở, vật kiến trúc đối với các hộ gia đình, cả nhân xây dựng trước ngày 01/7/2004. Chấp thuận hỗ trợ 30% giá nhà ở, vật kiến trúc đổi với các hộ gia đình, cá nhân xây dựng trái phép sau ngày 01/7/2004. Ông H đề nghị áp dụng khoản 3 điều 10 Nghị định 47/2014/NĐ-CP để được bồi thường “nhà ở, công trình xây dựng khác gắn liền với đất nằm trong phạm vi hành lang an toàn bị thiệt hại do phải giải tỏa được bồi thường theo mức thiệt hại theo quy định” là không có cơ sở xem xét vì điều luật này hướng dẫn thực hiện cho điều 94 Luật đất đai đối với trường hợp “Bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất ...” không áp dụng đối với trường hợp thu hồi đất. Do đó, các tài sản nhà cấp 4C diện tích 4,7m2; nhà cấp 4A diện tích 20,0m2; nhà tạm diện tích 20,0m2 của ông H được xây dựng trong hành lang bảo vệ quốc lộ 27 nên UBND huyện NS1 hỗ trợ 30% là đúng quy định.

- Đối với phần đất nâng nền cao bao quanh khuôn viên và nền nhà:

Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản ngày 04/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận thì các tài sản trên đất được kiểm tra hiện trạng đúng với biên bản lập ngày 02/8/2019 của Ủy ban nhân dân huyện NS1, phần đất nâng nền (được tính từ chiều cao nền nguyên thủy) cao 1,5m X 126,3 m2 = 189,45m3. Trên nền là nhà ở và các công trình, vật kiến trúc và điều này đã được ông H xác nhận tại phiên tòa. Xét kết cấu móng định hình, chiều sâu chôn móng nhà cấp 4 từ 1,2m/đến l,5m (tính từ mặt nền nhà) là phù hợp về mặt kỹ thuật và thực tế sử dụng. Diện tích đất nung nền được tính vào kết cấu nhà, diện tích xây dựng trên đất là một khối liên kết, thống nhất gồm nhà ở, sân,... và ông H đã được bồi thường đủ các tài sản liệt kê có trên đất; phần diện tích đất bị thu hồi được bồi thường giá trị quyền sử dụng đối với đất ở và không thuộc đối tượng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại nên không được bồi thường phần đất nâng nền là có cơ sở.

Từ những nhận định trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định quyết định số 3026/QĐ - UBND ngày 27/12/2019 Ủy ban nhân dân huyện NS1 về việc bồi thường hỗ trợ cho hộ ông H được ban hành đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục và có căn cứ về nội dung. Từ đó không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H.

[4] Hội đồng xét xử phúc thẩm xét kháng cáo của ông H thấy:

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ trong hồ sơ và quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Nay ông H kháng cáo nhưng không xuất trình được chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình.

Do vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn H, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Căn cứ theo Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông Nguyễn Văn H không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015,

I/ Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn H, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 07/2020/HC-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về yêu cầu hủy Quyết định số 3206/QĐ-UBND ngày 27/12/2019 của Ủy ban nhân dân huyện NS1 về việc bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông Nguyễn Văn H để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía đông giai đoạn 2017 - 2020, đoạn qua huyện NS1.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

II. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn H được miễn án phí hành chính phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

498
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất số 183/2021/HC-PT

Số hiệu:183/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 09/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về