Bản án về khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực bảo hiểm xã hộ số 170/2023HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 170/2023HC-PT NGÀY 22/03/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM XÃ HỘI

Ngày 22 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử công khai vụ án hành chính thụ lý số 472/2022/TLPT-HC ngày 05 tháng 11 năm 2022, về việc: “Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội”. Do có kháng cáo của người khởi kiện, đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2022/HC-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2379/2023/QĐ-PT ngày 06 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, giữa các đương sự sau:

* Người khởi kiện: Ông Vũ Văn L, sinh năm 1958. Địa chỉ: Tổ dân phố Quyết T, thị trấn Tủa C, huyện Tủa C, tỉnh Đ; Có mặt.

* Người bị kiện: Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ;

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Minh T1, chức vụ: Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ dân phố 9, phường Mường T2, thành phố Đ Phủ, tỉnh Đ. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phòng Chính trị, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đ. Địa chỉ trụ sở: Tổ dân phố 13, phường Mường T2, thành phố Đ Phủ, tỉnh Đ.

- Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quốc L1, Chức vụ: Chủ nhiệm; Vắng mặt.

- Người đại diện theo ủy quyền: Đại tá Nguyễn Đức H, Chức vụ: Phó Chủ nhiệm; Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Người khởi kiện ông Vũ Văn L trình bày và yêu cầu: Tháng 2/1978 ông Vũ Văn L là công nhân viên chức, công tác tại trại giống lợn cấp 2 huyện T, tỉnh Lai châu. Đến tháng 3/1979 theo lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước, ông Vũ Văn L được cơ quan lựa chọn tuyển vào quân ngũ tham gia lực lượng vũ trang đóng quân tại C4, d7 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu. Trong quân ngũ, ông L tham gia đội quân tiền trạm tại điểm cao 1262 thuộc xã Pa T3, huyện Sìn H, tỉnh Lai Châu và phục vụ tại xã Tà N, huyện Sìn H, tỉnh Lai Châu. Đến 24/12/1983 ông Vũ Văn L xuất ngũ về cơ sở cũ tiếp tục công tác tại trại giống lợn cấp 2 huyện T, tỉnh Lai Châu. Đến năm 1990 trại giống lợn cấp 2 huyện T, tỉnh Lai Châu giải thể, ông Vũ Văn L được giải quyết chế độ thôi việc theo Quyết định 176/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng. Đến tháng 5/2005 ông Vũ Văn L được bổ nhiệm chức vụ Phó Chỉ huy quân sự thị trấn Tủa C với tổng thời gian là 14 năm 8 tháng, có tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc, được Bảo hiểm xã hội cấp sổ mang mã số: 1116004661. Trong quá trình công tác tại Ủy ban nhân dân thị trấn Tủa C, vào thời điểm năm 2011 Đảng và nhà nước đã ban hành Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính Phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Căm-Pu-Chia, giúp bạn Lào sau ngày 30/4/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc (Gọi tắt là Quyết định số 62). Ông Vũ Văn L thuộc đối tượng được hưởng chế độ theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ và được hưởng trợ cấp một lần vào tháng 3/2014. Ban Chỉ huy quân sự huyện Tủa C, tỉnh Đ đã gọi ông Vũ Văn L lên nhận Quyết định và chế độ hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số 62 (số tiền 4.900.000 đồng) vào năm 2014. Sau khi nhận chế độ hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số 62 xong thì ông L vẫn công tác bình thưởng tại Ủy ban nhân dân thị trấn Tủa C, huyện Tủa C, tỉnh Đ. Đến tháng 12/2019 thì ông L được Ủy ban nhân dân huyện Tủa C miễn nhiệm giữ chức vụ Phó Chỉ huy quân sự thị trấn Tủa C, huyện Tủa C, tỉnh Đ. Cuối năm 2020 đầu năm 2021, do nhận thấy chưa đủ thời gian để hưởng chế độ hưu trí, vì vậy ông Vũ Văn L đã làm đơn đề nghị trả lại số tiền 4.900.000 đồng đã hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số 62 gửi đến Ủy ban nhân dân huyện Tủa C. Ủy ban nhân dân huyện Tủa C đã có văn bản gửi đến Ban Chỉ huy quân sự huyện Tủa C, tỉnh Đ. Ngày 31/3/2021, ông Vũ Văn L có đến Ban chỉ huy quân sự huyện Tủa C để nộp lại số tiền 4.900.000 đồng theo Quyết định số 62 và để nhận Quyết định số 449/QĐ-BTL ngày 24/3/2021 của Quân khu 2 về việc thu hồi Quyết định hưởng chế độ và truy thu tiền trợ cấp và Văn bản số 180/PCT- CS ngày 30/3/2021 của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh về việc xác nhận không hưởng chế độ theo Quyết định số 62 gửi Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đề nghị cộng nối thời gian công tác trong quân đội để hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội theo quy định. Vào khoảng tháng 4/2021, ông Vũ Văn L làm thủ tục, hồ sơ để xin cộng nối thời gian công tác trong quân đội gửi đến Bảo hiểm xã hội huyện Tủa C, tỉnh Đ. Sau đó, Bảo hiểm xã hội huyện Tủa C đã chuyển hồ sơ của ông L lên Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ để giải quyết theo quy định của pháp luật. Tháng 6/2021, ông L nhận được Văn bản số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc cộng nối thời gian công tác trong quân đội, theo đó Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ trả lời: “Trường hợp của ông có thời gian công tác từ tháng 02/1978 đến tháng 08/1990 (trong đó thời gian công tác trong quân đội từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983) tổng số thời gian công tác là 12 năm 07 tháng và số tháng đã thanh toán chế độ trợ cấp một lần theo Quyết định số 176/HĐBT là 12,5 tháng lương. Do đó, thời gian công tác trong quân đội của ông không được tính là thời gian tham gia Bảo hiểm xã hội). Sau khi nhận được Văn bản số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ, ông L không nhất trí với ý kiến trả lời của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ nên đã làm đơn khiếu nại gửi đến Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ. Ngày 28/9/2021, ông Vũ Văn L nhận được Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25/8/2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (lần đầu). Không nhất trí với Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25/8/2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (lần đầu) vì cho rằng Quyết định trên là trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông, nên ông Vũ Văn L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy bỏ Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu).

2. Đại diện người bị kiện của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ trình bày:

* Về thẩm quyền, trình tự, thời hạn và thể thức ban hành Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu): Ngày 01/7/2021, Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ nhận được đơn khiếu nại của ông L đề ngày 29/6/2021. Sau khi nhận được đơn của ông L, Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã xác định: Về thẩm quyền khiếu nại của ông L thuộc thẩm quyền giải quyết của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; Điều 20 Luật Khiếu nại; Khoản 2 Điều 14 Quyết định số 378/QĐ-BHXH ngày 11/3/2020 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành Quy trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Về trình tự xác định đơn khiếu nại của ông L thuộc thẩm quyền giải quyết của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh nên Bảo hiểm xã hội đã thực hiện quy trình tiếp nhận, thụ lý và giải quyết đơn khiếu nại theo trình tự quy định tại Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật Khiếu nại; Điều 17, Điều 18 Quyết định số 378/QĐ-BHXH ngày 11/3/2020 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành Quy trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Cụ thể: Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại là Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đối với việc không cộng nối thời gian trong quân đội từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983 với thời gian đóng Bảo hiểm xã hội sau để tính hưởng Bảo hiểm xã hội đối với ông L là có cơ sở pháp lý và hồ sơ pháp lý đầy đủ. Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã thành lập tổ tiến hành xác minh nội dung khiếu nại của ông L. Tổ xác minh đã làm việc với ông L; làm việc với cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan như: Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Đ; Sở Lao động – Thương binh&xã hội tỉnh; phòng Cấp Sổ, thẻ thuộc Bảo hiểm xã hội tỉnh. Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ cũng đã có văn bản xin ý kiến của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Quá trình xác minh của tổ xác minh được tiến hành công khai, khách quan, đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở kết quả xác minh, ngày 20/8/2021, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã tổ chức đối thoại. Tuy nhiên, ông L không đồng ý với việc Bảo hiểm xã hội không tính cộng nối thời gian trong quân đội để tính hưởng Bảo hiểm xã hội. Ngày 25/8/2021, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã ban hành Quyết định số 566/QĐ-BHXH về việc giải quyết khiếu nại của ông L (lần đầu). Về thời hạn giải quyết khiếu nại: Quá trình giải quyết khiếu nại của ông L, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã tuân thủ đúng quy định về thời hạn thụ lý (không quá 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn), thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu (không quá 60 ngày). Về thể thức: Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu) được ban hành theo đúng thể thức được quy định tại Điều 31 Luật Khiếu nại và biểu mẫu chuyên ngành (Mẫu số 24/KNTC ban hành kèm theo Quyết định số 378/QĐ-BHXH ngày 11/3/2020 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành Quy trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của Bảo hiểm xã hội Việt Nam).

* Về cơ sở pháp lý, nội dung của Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu): Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu) quyết định với nội dung: Không cộng nối thời gian trong quân đội từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983 để tính Bảo hiểm xã hội đối với ông Vũ Văn L là đúng. Hủy bỏ, thay thế nội dung trích dẫn căn cứ pháp lý tại Văn bản số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ để phù hợp với quy định pháp luật và hồ sơ vụ việc của ông L. Xác định thời hạn, quyền của người khiếu nại (ông L) được tiếp tục thực hiện sau khi nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. Nội dung giải quyết khiếu nại của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh là đúng, có cơ sở pháp lý. Việc không chấp nhận cộng nối thời gian trong quân đội từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983 để tính hưởng Bảo hiểm xã hội đối với ông L là có cơ sở pháp lý. Cụ thể:

Căn cứ việc không cộng nối thời gian trong quân đội đối với ông L: Đối với thời gian công tác trong quân đội là 4 năm 09 tháng tính từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983, ông L đã được Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Đ) giải quyết chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần theo quy định tại Quyết định số 176/HĐBT bằng Quyết định số 292/QĐ-UB ngày 12/9/1990. Khoản 6 Điều 123 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định: “Người lao động có thời gian làm việc trong khu vực Nhà nước trước ngày 01/01/1995 nếu đủ điều kiện hưởng nhưng chưa được giải quyết trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp một lần, trợ cấp xuất ngũ, phục viên thì thời gian đó được tính là thời gian đã đóng Bảo hiểm xã hội. Việc tính thời gian công tác trước ngày 01/01/1995 để hưởng Bảo hiểm xã hội được thực hiện theo các văn bản quy định trước đây về tính thời gian công tác trước ngày 01/01/1995 để hưởng Bảo hiểm xã hội của cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, quân nhân và công an nhân dân”. Điểm 1 Công văn số 3168/LĐTBXH-CSLĐXH của Bộ LĐ-TB&XH ngày 24/9/1993 quy định: “Những người đã nghỉ theo chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần, đã được giải quyết đúng chính sách, chế độ thì không được trả lại số tiền trợ cấp đã nhận để chuyển sang hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động; đơn vị nào giải quyết sai chế độ, chính sách thì đơn vị ấy phải chịu trách nhiệm giải quyết đúng chính sách, chế độ của Nhà nước đối với người lao động”. Điểm 1 Công văn số 4904/LĐTBXH-BHXH ngày 24/12/2014 của Bộ LĐ-TB&XH gửi Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định: “Người lao động có thời gian tham gia quân đội đã chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ trước ngày 15/12/1993, sau khi làm việc tại cơ quan, đơn vị, xí nghiệp nhà nước rồi nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần nhưng chưa được tính thời gian tham gia quân đội, sau đó tiếp tục làm việc và đóng Bảo hiểm xã hội thì thời gian tham gia quân đội mà chưa hưởng trợ cấp theo Quyết định số 47/2002/QĐ-TTg,… và Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ được cộng nối với thời gian công tác có đóng Bảo hiểm xã hội sau này để tính hưởng Bảo hiểm xã hội”. Trường hợp của ông L có thời gian công tác liên tục từ 02/1978 đến 8/1990 là 12 năm 7 tháng (giai đoạn đầu là công nhân viên chức, sau là quân nhân, sau tiếp là công nhân viên chức Nhà nước), trong đó có 04 năm 9 tháng trong quân đội (từ tháng 3/1979 đến 12/1983). Tháng 9/1990, ông L đủ điều kiện hưởng và đã được giải quyết nghỉ chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần đúng chính sách, chế độ theo Quyết định số 176/HĐBT; tổng số thời gian công tác là 12 năm 7 tháng và số tháng đã được thanh toán chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số 176/HĐBT là 12,5 tháng lương. Theo điểm 1 Công văn số 3168/LĐTBXH-CSLĐXH ngày 24/9/1993 của của Bộ LĐ-TB&XH thì trường hợp của ông L sau khi ông L đã được giải quyết đúng và bản thân ông cũng đã nhận chế độ thì không được trả lại số tiền trợ cấp đã nhận để được chuyển sang hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động. Như vậy, việc Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ quyết định không cộng nối thời gian trong quân đội từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983 để tính hưởng Bảo hiểm xã hội đối với ông Vũ Văn L là đúng, có cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, ngày 03/3/2014, ông L được giải quyết chế độ trợ cấp một lần theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ và ông đã nhận số tiền trợ cấp một lần là 4.900.000 đồng. Ngày 21/01/2021, ông L xin nộp lại tiền trợ cấp một lần theo Quyết định 62/2011/QĐ-TTg và đã được Bộ Tư lệnh Quân khu 2 thu hồi quyết định và số tiền 4.900.000 đồng (bằng Quyết định số 449/QĐ-BTL ngày 24/3/2021). Ý kiến của đại diện Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh tại buổi đối thoại ngày 20/8/2021 thống nhất việc Bảo hiểm xã hội tỉnh không tính cộng nối thời gian công tác trong quân đội đối với ông L là phù hợp quy định pháp luật, thực tế hồ sơ của ông L và kết quả xác minh.

Việc hủy bỏ nội dung trích dẫn tại Công văn số 1112/BHXH-CST: Quá trình xác minh thấy rằng Công văn số 1112/BHXH-CST đưa ra căn cứ pháp lý không phù hợp với trường hợp của ông L. Qua làm việc trực tiếp với đơn vị tham mưu và hồ sơ vụ việc cụ thể, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh đã hủy bỏ nội dung trích dẫn: “điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ...” thay thế bằng căn cứ trích dẫn “khoản 6 Điều 123 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014”. Việc xem xét lại quá trình giải quyết của cơ quan Bảo hiểm xã hội để trích dẫn căn cứ pháp lý phù hợp là thuộc thẩm quyền của người quản lý và phù hợp với quy định pháp luật.

Việc xác định thời hạn, quyền của người khiếu nại (ông L): Quyết định số 556/QĐ-BHXH nêu trong thời gian 30 ngày tính từ ngày nhận được Quyết định này, nếu không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại ông L có quyền khiếu nại lần 2 đến cơ quan quản lý Nhà nước về lao động cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án. Việc hướng dẫn này theo đúng quy định tại Khoản 3 Điều 119 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

Do đó, ông Vũ Văn L khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đ hủy bỏ Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu) là không có cơ sở. Đề nghị căn cứ quy định pháp luật để không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn L.

3. Quan điểm của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Tại Văn bản số 952/BCH-CT ngày 02/8/2022 của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Đ, xác định về trình tự, thủ tục, thẩm định xét duyệt hồ sơ của ông L đề nghị trợ cấp một lần và thu hồi quyết định hưởng chế độ và truy thu số tiền 4.900.000 đồng trợ cấp một lần để tính hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội đúng chính sách, đúng Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng chính phủ và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, trong hồ sơ đề nghị trợ cấp một lần do ông L không khai về việc ông L thôi việc theo Quyết định 176/HĐBT ngày 09/10/1989 của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng về việc sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh. Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đ đề nghị Tòa án căn cứ tài liệu có trong hồ sơ giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm 03/2022/HC-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ, đã quyết đinh: Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 3 Điều 32; khoản 1 Điều 115; điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 116; điểm a khoản 2 Điều 193; khoản 1 Điều 348; Điều 204; khoản 1 Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Căn cứ Điều 123 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014; các Điều 9, 20, 27, 28, 29, 30, 31, 33 của Luật Khiếu nại năm 2011; Khoản 2 Điều 14 Quyết định số 378/QĐ-BHXH ngày 11/3/2020 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành Quy trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn L về việc: Hủy bỏ Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25 tháng 8 năm 2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu);

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/10/2022, ông Vũ Văn L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, Người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn L.

Người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan: Về tố tụng quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính; những người tham gia tố tụng thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình; tại phiên tòa các đương sự xin xử vắng mặt, đề nghị xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật. Về hướng giải quyết vụ án, sau khi phân tích nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Bác kháng cáo của ông Vũ Văn L và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2022/HC-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính; Người bị kiện, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Tòa án xét xử vắng mặt theo Điều 255 Luật Tố tụng hành chính. Kháng cáo trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2]. Về đối tượng, thời hiệu, thẩm quyền khởi kiện: Ngày 29/6/2022, ông Vũ Văn L khởi kiện đối với Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25/8/2021 của Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ, về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu). Mặc dù ông Vũ Văn L không yêu cầu hủy Văn bản số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ, về việc cộng nối thời gian công tác trong quân đội, nhưng là văn bản hành chính nội dung có liên quan đến yêu cầu khởi kiên, nên cần xem xét tính hợp pháp của văn bản này.Xét đây là quyết định hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Tòa án cấp sơ thẩm xác định đối tượng khởi kiện, thời hiệu, thẩm quyền theo quy định tại Điều 3, Điều 30, Điều 32, Điều 115, Điều 116, Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính thụ lý, giải quyết là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Về nội dung:

[3.1]. Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành Quyết định số 566/QĐ- BHXH ngày 25/8/2021: Ngày 01/7/2021, ông Vũ Văn L có đơn khiếu nại. Sau khi nhận được đơn của ông L, Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã thực hiện quy trình tiếp nhận, thụ lý và giải quyết đơn khiếu nại theo trình tự quy định tại Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật Khiếu nại; Điều 17, Điều 18 Quyết định số 378/QĐ-BHXH ngày 11/3/2020 của Tổng giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành Quy trình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã thành lập tổ tiến hành xác minh nội dung khiếu nại của ông L. Quá trình xác minh của tổ xác minh được tiến hành công khai, khách quan, đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở kết quả xác minh, ngày 20/8/2021, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh đã tổ chức đối thoại. Tuy nhiên, ông L không đồng ý với việc Bảo hiểm xã hội không tính cộng nối thời gian trong quân đội để tính hưởng Bảo hiểm xã hội. Ngày 25/8/2021, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã ban hành Quyết định số 566/QĐ-BHXH, về việc giải quyết khiếu nại của ông L (lần đầu). Quá trình giải quyết khiếu nại của ông L, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh đã tuân thủ đúng quy định về thời hạn thụ lý (không quá 10 ngày kể từ ngày nhận được đơn), thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu (không quá 60 ngày), về thể thức được ban hành theo đúng thể thức được quy định. Như vậy, Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25/8/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ giải quyết đơn khiếu nại của ông Vũ Văn L đúng trình tự, thủ tục, đúng thời hạn, đúng thẩm quyền quy định của pháp luật.

[3.2]. Về tính hợp pháp Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25/8/2021:

[3.2.1]. Tháng 02/1978, ông Vũ Văn L là công nhân viên chức, công tác tại trại giống lợn cấp 2 huyện T, tỉnh Lai châu. Đến tháng 3/1979, ông Vũ Văn L được cơ quan lựa chọn tuyển vào quân ngũ tham gia lực lượng vũ trang đóng quân tại C4, d7 Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu. Đến 24/12/1983 ông Vũ Văn L xuất ngũ về cơ sở cũ tiếp tục công tác tại Trại giống lợn cấp 2 huyện T, tỉnh Lai Châu. Đến năm 1990 trại giống lợn cấp 2 huyện T, tỉnh Lai Châu giải thể, ông Vũ Văn L được giải quyết chế độ thôi việc theo Quyết định 176/HĐBT ngày 09/10/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Vào khoảng tháng 4/2021, ông Vũ Văn L làm thủ tục, hồ sơ để xin cộng nối thời gian công tác trong quân đội gửi đến Bảo hiểm xã hội huyện Tủa C, tỉnh Đ. Bảo hiểm xã hội huyện Tủa C đã chuyển hồ sơ của ông L lên Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ để giải quyết theo quy định của pháp luật. Tháng 6/2021, ông nhận được Văn bản số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ trả lời: “Trường hợp của ông có thời gian công tác từ tháng 02/1978 đến tháng 08/1990 (trong đó thời gian công tác trong quân đội từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983) tổng số thời gian công tác là 12 năm 07 tháng và số tháng đã thanh toán chế độ trợ cấp một lần theo Quyết định số 176/HĐBT là 12,5 tháng lương. Do đó, thời gian công tác trong quân đội của ông không được tính là thời gian tham gia Bảo hiểm xã hội). Sau khi nhận được Văn bản số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ, ông L không nhất trí với ý kiến trả lời của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ, nên đã làm đơn khiếu nại gửi đến Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ. Ngày 25/8/2021, Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã ban hành Quyết định số 566/QĐ-BHXH về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu), trả lời không có căn cứ để cộng nối thời gian trong quân đội đối với ông L.

[3.2.2]. Xét thấy, đối với thời gian công tác trong quân đội là 4 năm 9 tháng tính từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983, ông L đã được Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Đ) giải quyết chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần theo quy định tại Quyết định số 176/HĐBT ngày 09/10/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, về việc sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh bằng Quyết định số 292/QĐ-UB ngày 12/9/1990 của Ủy ban nhân dân huyện T. Khoản 6 Điều 123 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định: Người lao động có thời gian làm việc trong khu vực Nhà nước trước ngày 01/01/1995 nếu đủ điều kiện hưởng nhưng chưa được giải quyết trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp một lần, trợ cấp xuất ngũ, phục viên thì thời gian đó được tính là thời gian đã đóng Bảo hiểm xã hội. Việc tính thời gian công tác trước ngày 01/01/1995 để hưởng Bảo hiểm xã hội được thực hiện theo các văn bản quy định trước đây về tính thời gian công tác trước ngày 01/01/1995 để hưởng Bảo hiểm xã hội của cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, quân nhân và công an nhân dân. Điểm 1 Công văn số 3168/LĐTBXH-CSLĐXH của Bộ LĐ-TB&XH ngày 24/9/1993 quy định: Những người đã nghỉ theo chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần, đã được giải quyết đúng chính sách, chế độ thì không được trả lại số tiền trợ cấp đã nhận để chuyển sang hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động; đơn vị nào giải quyết sai chế độ, chính sách thì đơn vị ấy phải chịu trách nhiệm giải quyết đúng chính sách, chế độ của Nhà nước đối với người lao động. Điểm 1 Công văn số 4904/LĐTBXH-BHXH ngày 24/12/2014 của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội gửi Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định: “Người lao động có thời gian tham gia quân đội đã chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ trước ngày 15/12/1993, sau khi làm việc tại cơ quan, đơn vị, xí nghiệp nhà nước rồi nghỉ việc hưởng trợ cấp một lần nhưng chưa được tính thời gian tham gia quân đội, sau đó tiếp tục làm việc và đóng Bảo hiểm xã hội thì thời gian tham gia quân đội mà chưa hưởng trợ cấp theo Quyết định số 47/2002/QĐ- TTg,…và Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ được cộng nối với thời gian công tác có đóng Bảo hiểm xã hội sau này để tính hưởng Bảo hiểm xã hội”. Trường hợp của ông L có thời gian công tác liên tục từ 02/1978 đến 8/1990 là 12 năm 7 tháng (giai đoạn đầu là công nhân viên chức, sau là quân nhân, sau tiếp là công nhân viên chức Nhà nước), trong đó có 4 năm 9 tháng trong quân đội (từ tháng 3/1979 đến 12/1983). Tháng 9/1990, ông L đủ điều kiện hưởng và đã được giải quyết nghỉ chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần đúng chính sách, chế độ theo Quyết định số 176/HĐBT ngày 09/10/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, về việc sắp xếp lại lao động trong các đơn vị kinh tế quốc doanh; tổng số thời gian công tác là 12 năm 7 tháng và số tháng đã được thanh toán chế độ thôi việc hưởng trợ cấp một lần theo Quyết định số 176/HĐBT là 12,5 tháng lương. Theo điểm 1 Công văn số 3168/LĐTBXH-CSLĐXH ngày 24/9/1993 của của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, thì trường hợp của ông L sau khi ông L đã được giải quyết đúng và bản thân ông cũng đã nhận chế độ thì không được trả lại số tiền trợ cấp đã nhận để được chuyển sang hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động. Do đó, Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ quyết định không cộng nối thời gian trong quân đội từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983 để tính hưởng Bảo hiểm xã hội đối với ông Vũ Văn L là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[3.2.3]. Ngày 03/3/2014, ông L được giải quyết chế độ trợ cấp một lần theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ, ông L đã nhận số tiền trợ cấp một lần là 4.900.000đồng. Ngày 21/01/2021, ông L xin nộp lại tiền trợ cấp một lần theo Quyết định 62/2011/QĐ-TTg và đã được Bộ Tư lệnh Quân khu 2 thu hồi quyết định và số tiền 4.900.000đồng (bằng Quyết định số 449/QĐ-BTL ngày 24/3/2021 của Bộ Tư lệnh quân khu 2 quyết định về việc thu hồi Quyết định hưởng chế độ và truy thu số tiền trợ cấp một lần theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ). Đại diện Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Đ xác định, do ông L không khai rõ về việc ông L thôi việc theo Quyết định số 176 trong hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp một lần. Do đó, tại buổi đối thoại ngày 20/8/2021, thống nhất việc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ không tính cộng nối thời gian công tác trong quân đội đối với ông L là phù hợp quy định pháp luật.

[3.2.4]. Đủ căn cứ xác định: Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ ban hành Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25/8/2021, về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu) là hợp pháp về nội dung.

[3.3]. Xét tính hợp pháp của Văn bản số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ: Tháng 4/2021, ông Vũ Văn L làm thủ tục, hồ sơ để xin cộng nối thời gian công tác trong quân đội gửi đến Bảo hiểm xã hội huyện Tủa C, tỉnh Đ. Bảo hiểm xã hội huyện Tủa C đã chuyển hồ sơ của ông L lên Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ để giải quyết theo quy định của pháp luật. Tháng 6/2021, ông nhận được Văn bản số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ trả lời: “Trường hợp của ông có thời gian công tác từ tháng 02/1978 đến tháng 08/1990 (trong đó thời gian công tác trong quân đội từ tháng 3/1979 đến tháng 12/1983) tổng số thời gian công tác là 12 năm 07 tháng và số tháng đã thanh toán chế độ trợ cấp một lần theo Quyết định số 176/HĐBT là 12,5 tháng lương. Do đó, thời gian công tác trong quân đội của ông không được tính là thời gian tham gia Bảo hiểm xã hội). Tuy nhiên, trong Công văn số 1112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ, trả lời đơn đề nghị cộng nối thời gian công tác trong quân đội cho ông L viện dẫn căn cứ pháp lý chưa phù hợp với trường hợp của ông L, nên tại Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25/8/2021 về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu), Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Đ đã hủy bỏ nội dung trích dẫn: “Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ…” tại Văn bản số 112/BHXH-CST ngày 21/6/2021 của Bảo hiểm xã hội tỉnh và thay thế bằng căn cứ trích dẫn tại: “Khoản 6 Điều 123 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014”. Việc xem xét, thay đổi căn cứ tại văn bản đã ban hành là đúng thẩm quyền và đúng quy định pháp luật.

[3.4]. Với những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm hoàn toàn đồng tình và thống nhất với những nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định: Quyết định số 566/QĐ-BHXH ngày 25/8/2021 của Giám đốc bảo hiểm xã hội tỉnh Đ, về việc giải quyết khiếu nại của ông Vũ Văn L (Lần đầu) đã được ban hành đúng quy định pháp luật về cả thẩm quyền, trình tự thủ tục và nội dung. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Xét kháng cáo của ông Vũ Văn L: Tại cấp phúc thẩm, ông Vũ Văn L không cung cấp chứng cứ mới nào khác cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do vậy, kháng cáo không có căn cứ, cấp phúc thẩm bác kháng cáo của ông Vũ Văn L và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5]. Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.

[6]. Về án phí: Ông Vũ Văn L trên 60 tuổi có đơn xin miễn án phí, nên cấp phúc thẩm miễn án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

 1. Bác kháng cáo của người khởi kiện là ông Vũ Văn L.

2. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 03/2022/HC-ST ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ.

3. Án phí phúc thẩm: ông Vũ Văn L không phải nộp án phí phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu luật pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực bảo hiểm xã hộ số 170/2023HC-PT

Số hiệu:170/2023HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 22/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về