Bản án về khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực chế độ, chính sách số 219/2022/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 219/2022/HC-PT NGÀY 05/09/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH

Vào ngày 05 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Q, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 111/2022/TLPT-HC ngày 13 tháng 6 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực chế độ, chính sách”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 10/2022/HC-ST ngày 14 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Bùi Sinh Q, sinh năm 1943. Địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn M, huyện M, tỉnh Q, có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện: Ông Nguyễn G – luật sư, Văn phòng luật sư N thuộc Đoàn luật sư tỉnh Q. Địa chỉ: huyện M, tỉnh Q, có mặt.

- Người bị kiện:

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Q. Địa chỉ: tỉnh Q, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Q: Ông Lê Chí P – Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Q, có mặt.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Q. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn M, huyện M, tỉnh Q, có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q. Địa chỉ: tỉnh Q, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Bùi Minh Q, sinh năm 1987.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Sinh Q, sinh năm 1943. Cùng địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn M, huyện M, tỉnh Q, có mặt.

2. Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Q, có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện M, tỉnh Q, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Bùi Sinh Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 09/7/2020, các đơn khởi kiện bổ sung và trong quá trình giải quyết vụ án; người khởi kiện và đại diện hợp pháp cho người có quyền lợi nghĩa vụ anh Bùi Minh Q là ông Bùi Sinh Q trình bày:

Năm 2009, ông Q làm hồ sơ để hưởng chính sách người có công trong kháng chiến chống Mỹ, đã khai từ năm 1964 đến 1972, ông có tham gia hoạt động cơ sở cho Cách mạng, đi dân công chuyển gạo, chuyển thương, đồng thời thu gom một số vũ khí cung cấp cho Cách mạng và cung cấp một số lương thực, thực phẩm, thuốc men cho cách mạng đã được Nhà nước xét tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất. Sau đó, ông nhớ lại một số thành tích hoạt động giúp đỡ cách mạng từ năm 1973 đến 1975 nên năm 2011, ông làm lại hồ sơ xin hưởng chế độ người có công trong kháng chiến chống Mỹ và được Nhà nước xét tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Trong quá trình tham gia hoạt động cơ sở, ông được ông Võ Văn N và bà Biện Thị T là người giao nhiệm vụ; ngoài ra một số hoạt động khác còn có những người biết như ông Nguyễn T, bà Trương Thị S, bà Lê Thị N, bà Phạm Thị V.

Trên cơ sở đã tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến; năm 2017 ông làm hồ sơ cho ông và con trai là Bùi Minh Q bị phơi nhiễm chất độc hóa học Dioxin. Ngày 28/3/2018, Hội đồng giám định y khoa tỉnh Q khám và kết luận con ông là Bùi Minh Q bị bệnh chậm phát triển tâm thần mức độ nặng (F72) có phơi nhiễm chất độc hóa học Dioxin, được Sở Y tế cấp Giấy chứng nhận bệnh tật do bị nhiễm chất độc hóa học số 33/SYT-CN ngày 16/4/2018. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Quyết định số 29/QĐ-SLĐTBXH về việc cấp giấy chứng nhận hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và trợ cấp hàng tháng cho ông và Quyết định số 30/QĐ-SLĐTBXH về việc trợ cấp ưu đãi trợ cấp hàng tháng đối với con ông là Bùi Minh Q, là con của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Năm 2018, một số người ở thị trấn M và xã Đ có đơn tố cáo cho rằng vào những năm trước 1975, ông cùng gia đình chạy lên vùng địch, không tham gia đóng góp gì cho Cách mạng, nay khai man hồ sơ giúp đỡ Cách mạng để được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba và hưởng chế độ trợ cấp bị phơi nhiễm chất độc hóa học. Thử nghĩ việc làm cơ sở cho Cách mạng mà ai cũng biết được thì chắc là tính mạng ông cũng không còn mà chỉ những người giao nhiệm vụ cho ông mới biết được chứ đâu phải như du kích hay bộ đội đâu mà ai cũng biết.

Ngày 23/4/2019, UBND huyện M thành lập đoàn thanh tra, tiến hành thẩm tra, xác minh; đến ngày 05/6/2019, UBND huyện M ban hành Kết luận số 96/KLTT- UBND với nội dung: Theo đơn tố cáo cho rằng vào khoảng năm 1967 gia đình ông lên ở vùng địch, ông đi lính cho chế độ Mỹ - Ngụy; qua thẩm tra xác minh không có chứng cứ để khẳng định ông Bùi Sinh Q có đi lính cho địch. Đối chiếu giữa bản khai làm chế độ của ông Bùi Sinh Q với các biên bản thẩm tra, xác minh thì mâu thuẫn không trùng khớp về nhiệm vụ công tác được giao; thời gian tham gia cách mạng cũng như thành tích đóng góp cho kháng chiến. Quy trình xét duyệt khen thưởng của xã Đ không đúng quy định. Như vậy, ông Bùi Sinh Q đã lợi dụng những người kháng chiến trước 1975 để khai khống thành tích kháng chiến, mục đích khai khống để được hưởng chế độ Huân chương kháng chiến và chất độc hóa học là không đúng Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ. Đồng thời, cũng có kết luận với con của ông là Bùi Minh Q như sau: Anh Bùi Minh Q làm hồ sơ con của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là không đúng Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ. Vì: Ông Bùi Sinh Q cha anh Bùi Minh Q không có thành tích đóng góp kháng chiến.

Sau khi có Kết luận số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019, ông thấy Kết luận không khách quan, đã gây ảnh hưởng đến quyền lợi của ông và con của ông nên ngày 20/7/2019 ông có đơn khiếu nại gửi đến UBND huyện M. Ngày 27/9/2019, trong buổi đối thoại do Chủ tịch UBND huyện chủ trì không mời những người đã tố cáo ông và những người đã giao nhiệm vụ và xác nhận cho ông để đối thoại mà chỉ có mình ông cùng với một số ban, ngành, hội đoàn thể của huyện để đối thoại; ông thấy như vậy là không khách quan, có tính áp đặt đối với ông, đã gây thiệt hại ảnh hưởng đối với ông cũng như con ông.

Sau buổi đối thoại, ông Trần Văn Mẫn Chủ tịch UBND huyện M kết luận như sau: Nhiều ý kiến đã tham gia phân tích cơ bản thống nhất các nội dung theo báo cáo của Thanh tra huyện về kết quả thẩm tra, xác minh đơn khiếu nại ngày 20/7/2019 của ông Bùi Sinh Q ở Tổ dân phố 2, thị trấn M. Giữ nguyên Kết luận số 96/KLTT- UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện. Ngày 21/10/1019, Chủ tịch UBND huyện M ra Quyết định số 4889/QĐ-UBND với nội dung: Không công nhận nội dung đơn khiếu nại ngày 20/7/2019 của ông Bùi Sinh Q, quê quán Đạm thủy Nam, xã Đ, huyện M, đang ở Tổ dân phố 2, thị trấn M, khiếu nại đối với Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M.

Sau khi Chủ tịch UBND huyện M ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của ông và con ông là vẫn giữ nguyên Kết luận số 96/KLTT-UBND nên ngày 11/11/2019, ông có làm đơn khiếu nại gửi đến Chủ tịch UBND tỉnh Q. Cơ quan Thanh tra tỉnh Q tiến hành xác minh, đến ngày 22/5/2020 tổ chức buổi đối thoại cũng chỉ có ông và con ông chứ những người tố cáo và những người giao nhiệm vụ cho ông cũng không có tham gia nên việc đối thoại cũng không được khách quan. Sau đó ông Cao Đình H, Phó chánh Thanh tra tỉnh có kết luận: Qua báo cáo thẩm tra, xác minh của Tổ công tác và các ý kiến tham gia của đại diện các cơ quan tại cuộc họp đều xác định trường hợp ông Bùi Sinh Q là người có tham gia đóng góp giúp đỡ Cách mạng, được cấp có thẩm quyền khen thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất vào năm 2010 là đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, việc tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba vào năm 2011 là không đảm bảo trình tự, thủ tục và thành tích đóng góp cho Cách mạng của ông. Việc kiến nghị cấp có thẩm quyền thu hồi Huân chương kháng chiến hạng Ba là đúng quy định của pháp luật. Việc chế độ chất độc hóa học của ông Q: đề nghị Chủ tịch UBND huyện M giao các cơ quan chuyên môn huyện phối hợp với UBND xã Đ rà soát lại hồ sơ năm 2009 của ông Q để xem xét trường hợp ông Q có được hưởng chế độ chất độc hóa học không. Nếu không được hưởng thì hướng dẫn ông lập thủ tục để được hưởng các chế độ bảo trợ xã hội phù hợp.

Ngày 10/6/2020, Chủ tịch UBND tỉnh Q ra Quyết định số 825/QĐ- UBND giải quyết khiếu nại lần 2 với nội dung: Không công nhận toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Bùi Sinh Q đối với Kết luận số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M. Việc ông Bùi Sinh Q yêu cầu khôi phục chế độ trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ Cách mạng và người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là không có cơ sở pháp lý để xem xét, giải quyết. Việc giải quyết của Chủ tịch UBND huyện M tại Quyết định số 4889/QĐ- UBND ngày 21/10/2019 là đúng chính sách, pháp luật quy định.

Như vậy, Chủ tịch UBND tỉnh Q không thực hiện đúng tinh thần của Nghị quyết về ban hành Điều lệ khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Mỹ cứu nước số 47-NQ/HĐNN ngày 29 tháng 9 năm 1981 của Hội đồng Nhà nước và Nghị định số 54/2006/NĐ-CP ngày 26/5/2006 của Chính phủ quy định tại Mục 8 Điều 22 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và Điều 39 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với Cách mạng, có hiệu lực thực hiện từ ngày 01/06/2013. Do đó, ông yêu cầu Tòa án giải quyết, tuyên hủy:

- Kết luận số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M về kết quả thẩm tra, xác minh đơn tố cáo man khai hồ sơ để hưởng chế độ chính sách của một số đối tượng ở thị trấn M và xã Đ.

- Quyết định số 4889/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 của Chủ tịch UBND huyện M về giải quyết khiếu nại lần đầu đối với ông Bùi Sinh Q;

- Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 10/6/2020 của Chủ tịch UBND tỉnh Q về giải quyết khiếu nại lần 2 đối với ông Bùi Sinh Q.

Trên cơ sở Thông báo số 256/TB-TA ngày 19/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Q về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; ngày 14/8/2021 và ngày 26/8/2021, ông Bùi Sinh Q có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu Tòa án tuyên hủy:

- Quyết định số 123/QĐ-SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đối với ông Bùi Sinh Q;

- Quyết định số 124/QĐ SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định giấy chứng nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và trợ cấp hàng tháng đối với ông Bùi Sinh Q;

- Quyết định số 125/QĐ-SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với anh Bùi Minh Q.

Người bị kiện, Chủ tịch UBND huyện M, tỉnh Q trình bày:

Nội dung vụ việc của ông Bùi Sinh Q và con ông Bùi Minh Q đã được UBND huyện ban hành Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 23/01/2019 về việc thành lập Đoàn Thanh tra để thẩm tra, xác minh đơn kiến nghị của hai Hội Cựu chiến binh thôn Đ, xã Đ và đơn của Chi hội Cựu chiến binh tổ dân phố 2, thị trấn M. Qua kết quả thẩm tra, xác minh, UBND huyện đã ban hành Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019, trong đó có trường hợp của ông Bùi Sinh Q và con của ông là Bùi Minh Q. Theo đó, ông Bùi Sinh Q không đồng ý Kết luận số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của UBND huyện. Do đó, ông Q có đơn khiếu nại đề ngày 20/7/2019 và được UBND huyện thụ lý đơn khiếu nại và giao cho Chánh thanh tra huyện thẩm tra, xác minh đơn của ông Bùi Sinh Q tại Quyết định số 3508/QĐ- UBND ngày 19/8/2019. Ngày 21/10/2019, Chủ tịch UBND huyện M ban hành Quyết định số 4889/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Sinh Q. Nội dung trong Quyết định vì không có tình tiết gì mới, tại Điều 1 Quyết định:“Không công nhận nội dung Đơn khiếu nại ghi ngày 20/7/2019 của ông Bùi Sinh Q, ở tổ dân phố 2, thị trấn M đối với Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M”.

Ông Bùi Sinh Q không đồng ý quyết định giải quyết khiếu nại lần 01 của Chủ tịch UBND huyện nên tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến UBND tỉnh Q và được UBND tỉnh Q thụ lý và giải quyết khiếu nại tại Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 10/6/2020 về việc giải quyết khiếu nại lần 02 của ông Bùi Sinh Q, ở tổ dân phố 2, thị trấn M, huyện M. Nội dung giải quyết như sau: Tại Điều 1 của Quyết định: “Không công nhận toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Bùi Sinh Q đối với Kết luận số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M. Việc ông Bùi Sinh Q yêu cầu khôi phục chế độ trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng và người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là không có cơ sở pháp lý để xem xét giải quyết. Việc giải quyết của Chủ tịch UBND huyện M tại Quyết định số 4889/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 là đúng chính sách pháp luật quy định”.

Về yêu cầu của ông Bùi Sinh Q hủy Quyết định số 4889/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 của Chủ tịch UBND huyện M và Kết luận số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M về việc kết luận và giải quyết khiếu nại lần đầu đối với ông Bùi Sinh Q, con Bùi Minh Q. Đề nghị Tòa án nhân tỉnh Q giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người bị kiện, Chủ tịch UBND tỉnh Q trình bày:

Năm 2009, ông Bùi Sinh Q lập hồ sơ đề nghị khen thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, trong đó ông Bùi Sinh Q khai tại Bản khai về thành tích giúp đỡ Cách mạng và tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước đề ngày 10/7/2009, nội dung như sau: “Từ năm 1964-1968, đi dân công mỗi năm 03 lần, mỗi lần 01 tháng đến 01 tháng 15 ngày cõng hàng từ T về Q; trước chiến dịch năm 1968, đi dân công vận tải thương binh 01 tháng phục vụ chiến dịch tết Mậu Thân; ủng hộ cho Cách mạng 30 lọ thuốc Penicilin và 05 hộp B12, B1. Từ năm 1969-1972, sống hợp pháp ở Khu đồi núi Ông Đ nắm tình hình địch báo cho du kích xã mỗi tháng 03 lần; lấy trộm lựu đạn của địch đem về giao cho du kích xã Đ mỗi năm 01 lần, mỗi lần 05 đến 10 quả; ủng hộ cho du kích 01 thùng mắm cái, 02 cái võng nilông, 06 mét nilông đi mưa. Cũng trong thời gian này nhận rãi truyền đơn mỗi năm 02 lần, mỗi lần 100 tờ đến 150 tờ...”.

Bản khai thành tích của ông Bùi Sinh Q được ông Võ Văn N xác nhận vào ngày 12/7/2009 và bà Biện Thị T xác nhận vào ngày 14/7/2009, cụ thể như sau: Ông Võ Văn N xác nhận: “1964-1968 đi dân công mỗi năm 03 lần, mỗi lần 01 tháng 15 ngày. Năm 1968 đi dân công tải thương binh một tháng, ủng hộ cho Cách mạng 30 lọ thuốc Penicilin và 05 hộp thuốc B12 và B1. Năm 1969-1972 sống hợp pháp ở núi Ông Đ làm cơ sở cho cách mạng, nắm tình hình địch báo cho cách mạng, mỗi tháng 3 lần; lấy lựu đạn của địch đem về cho du kích mỗi năm 1 lần, từ 5 đến 16 quả lựu đạn. Ủng hộ cho du kích 1 thùng mắm, 2 cái võng ny lông, 6m ny lông đi mưa. Quãng thời gian này rải truyền đơn mỗi năm 2 lần, mỗi lần 100 - 150 tờ”. Bà Biện Thị T xác nhận: “1964-1968 đi dân công mỗi năm 3 lần, mỗi lần 1 tháng 15 ngày. Năm 1968 đi dân công tải thương binh 1 tháng, ủng hộ cách mạng 30 lọ thuốc Penicilin và 05 hộp thuốc B12 và B1. Năm 1969-1972 sống hợp pháp ở Khu đồi núi Ông Đ làm cơ sở cho cách mạng, nắm tình hình hoạt động của địch báo cho cách mạng, mỗi năm 3 lần; lấy lựu đạn của địch đem về cho du kích xã, mỗi năm 1 lần, từ 5 đến 10 quả. Ủng hộ cho du kích 1 thùng mắm, 2 cái võng ny lông và 6m ny lông; Cũng thời gian này, rải truyền đơn, mỗi năm 2 lần, mỗi lần 100 đến 150 tờ”.

UBND xã Đ và Hội đồng Thi đua - Khen thưởng xã Đ đã tổ chức họp xét hồ sơ của ông Bùi Sinh Q và thống nhất trình Hội đồng thi đua khen thưởng huyện M xem xét, thẩm tra hồ sơ cùng với nhiều trường hợp khác tại xã. Kết quả thẩm tra, Hội đồng thi đua khen thưởng huyện M đã tham mưu UBND huyện M có Tờ trình số 61/TTr-UBND ngày 21/9/2009, kèm theo danh sách đề nghị tặng thưởng Huân, Huy chương, trong đó ông Bùi Sinh Q ở số thứ tự số 148, được đề nghị tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Tuy nhiên, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh Q thẩm định hồ sơ do UBND huyện M trình, xét thấy thành tích đóng góp cách mạng của ông Bùi Sinh Q trong Bản khai chỉ xứng đáng ở mức khen thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất nên đã tham mưu UBND tỉnh có Tờ trình số 3343/TTr-UBND ngày 26/11/2009 đề nghị Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương xét tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất. Ngày 01/6/2010, Chủ tịch nước ban hành Quyết định số 757/QĐ-CTN tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất cho ông Bùi Sinh Q. Ông Q đã nhận và không có thắc mắc, khiếu nại gì.

Đến năm 2011, ông Bùi Sinh Q tiếp tục lập lại hồ sơ để đề nghị khen thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba, trong đó có Bản khai về thành tích đóng góp giúp đỡ cách mạng đề ngày 14/10/2011, như sau: “Từ năm 1964-1968, ủng hộ cho cách mạng 150 lọ thuốc Penicilin, 140 lọ thuốc Streptamycin, 50 hộp B12, đi dân công mỗi năm 04 lần, mỗi lần 45 ngày chuyển thương binh lên T và chuyển hàng hóa từ T về M. Từ năm 1969 - 1972, làm cơ sở hợp pháp ở núi Ông Đ nhận rải truyền đơn mỗi tháng 02 lần, mỗi lần 5000 tờ, dẫn đường cho du kích và bộ đội đánh địch mỗi năm 03 lần, mỗi lần diệt được 08 - 10 tên địch. Năm 1970, vận động được 03 tên lính nghĩa quân mang súng đạn quay về với cách mạng. Ngoài ra, còn lấy được 50 quả lựu đạn, 50 băng đạn AR15 về giao cho du kích đánh địch, ủng hộ cho cách mạng 02 thùng mắm cái, 20 cái võng nilông, 50 mét nilông đi mưa. Từ năm 1973 - 1975, đi dân công làm đường Trường Sơn, mỗi năm 02 lần, mỗi lần 02 tháng, ủng hộ cách mạng 150 kg gạo và 02 thùng mắm cái”. Bản khai của ông Bùi Sinh Q cũng tiếp tục được xác nhận bởi 02 nhân chứng là ông Võ Văn N và bà Biện Thị T (Bản khai năm 2009 cũng do ông Võ Văn N và bà Biện Thị T xác nhận), có Giấy xác nhận cùng để ngày 14/10/2011, cụ thể như sau:

Ông Võ Văn N xác nhận: “Năm 1963-1969 tôi có giao nhiệm vụ cho ông Bùi Sinh Q là một cơ sở hợp pháp làm liên lạc nắm tình hình địch cung cấp cho du kích, anh Q móc nối lấy được 50 quả lựu đạn, 50 băng đạn AR15 đưa về cho du kích đánh địch, anh còn mua một số thuốc tây, võng và ny lông đi mưa về cho du kích và cán bộ để phục vụ chiến đấu. Anh động viên gia đình đóng góp lương thực, mắm để nuôi quân. Trong lúc khó khăn, anh còn tham gia đi dân công nhiều lần để vận chuyển gạo, thương binh về căn cứ. Trong thời gian trên, tôi được biết thành tích tham gia kháng chiến của anh Q liên tục đến năm 1975 giải phóng miền Nam”.

Bà Biện Thị T xác nhận: “Ông Bùi Sinh Q tham gia cách mạng từ năm 1964 trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, tôi phân công cho ông từ năm 1964-1975 ông Q tham gia công tác rất tiến bộ, tôi vận động ông Q trực tiếp đi dân công để tải thương binh và vận chuyển hàng hóa 26 lần, mỗi lần 45 ngày, vận động 3 tên lính nghĩa quân mang súng đạn quay về với cách mạng. Ngoài ra ông còn đóng góp 150kg gạo, 04 thùng mắm cái, thuốc tây, võng và ny lông”.

UBND xã và Hội đồng Thi đua - Khen thưởng xã Đ đã tổ chức họp xét, thể hiện ở Biên bản họp xét khen thưởng (viết tay) ghi ngày 26/9/2011; Biên bản họp xét ngày 05/10/2011; Biên bản giải trình của UBND xã Đ ngày 05/10/2011; Biên bản thẩm tra, xác minh đơn xin xét khen thưởng ngày 06/10/2011. Trong các Biên bản họp xét của Hội đồng thi đua khen thưởng xã Đ không có hồ sơ và danh sách không có tên ông Bùi Sinh Q nhưng đến ngày 10/11/2011, tại Tờ trình số 69/TT- UBND của UBND xã Đ, kèm theo danh sách đề nghị tặng thưởng Huân, Huy chương lại có tên ông Bùi Sinh Q ở số thứ tự 15 đề nghị xét khen thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba.

Hội đồng Thi đua - Khen thưởng huyện M tổ chức thẩm định nhưng không phát hiện sai sót nên đã tham mưu UBND huyện M có Tờ trình số 122/TTr-UBND ngày 12/12/2011 kèm theo danh sách đề nghị tặng thưởng Huân, Huy chương, trong đó có tên ông Bùi Sinh Q ở số thứ tự 15 đề nghị xét khen thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba.

Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh đã xem xét, tham mưu UBND tỉnh có Tờ trình số 266/TTr-UBND ngày 08/02/2012 đề nghị Chủ tịch nước tặng thưởng Huân, Huy chương kháng chiến chống Mỹ, kèm theo danh sách có tên ông Bùi Sinh Q đề nghị khen thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba, số thứ tự 153.

Chủ tịch nước ban hành Quyết định số 1232/QĐ-CTN ngày 16/8/2012 tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba cho ông Bùi Sinh Q. Theo đó, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh ban hành Quyết định số 79/QĐ- SLĐTBXH ngày 09/12/2013 về việc trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ Cách mạng cho ông Bùi Sinh Q là 718.000đồng/tháng. Trên cơ sở hồ sơ tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba năm 2011, ngày 16/7/2017, ông Bùi Sinh Q xác lập hồ sơ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học cho ông và con trai ông là Bùi Minh Q, được UBND xã Đ xác nhận ngày 21/8/2017.

Ngày 28/3/2018, Hội đồng giám định y khoa tỉnh Q đã có Biên bản giám định y khoa khám giám định lần đầu, kết luận anh Bùi Minh Q (con đẻ ông Bùi Sinh Q) bị bệnh chậm phát triển tâm thần mức độ nặng (F72) có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học Dioxin, được Sở Y tế cấp Giấy chứng nhận bệnh tật do nhiễm chất độc hóa học số 33/SYT-CN ngày 16/4/2018. Ngày 20/4/2018, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Quyết định số 29/QĐ-SLĐTBXH về việc cấp Giấy chứng nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và trợ cấp hàng tháng cho ông Bùi Sinh Q với mức 1.799.000 đồng/tháng và Quyết định số 30/QĐ-SLĐTBXH về việc trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với con của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và trợ cấp hàng tháng đối với anh Bùi Minh Q là 850.000 đồng/tháng (hưởng từ tháng 3/2018 đến tháng 3/2019 với tổng số tiền là 11.581.000 đồng).

Năm 2018, một số công dân ở thị trấn M và xã Đ, huyện M phát sinh đơn tố cáo đề ngày 15/10/2018, đơn kiến nghị của Chi hội Cựu chiến binh Tổ dân phố 2, thị trấn M, huyện M đề ngày 05/12/2018 và đơn kiến nghị của Chi hội Cựu chiến binh thôn Đ, xã Đ, huyện M đều cho rằng ông Bùi Sinh Q trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước (trước năm 1975), ông cùng gia đình chạy lên vùng địch (thuộc xã Đức Vinh, nay thuộc thị trấn M) sinh sống, không tham gia đóng góp gì cho cách mạng, nay khai man hồ sơ khen thưởng thành tích giúp đỡ cách mạng để được khen thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba và hưởng chế độ trợ cấp cho người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học hàng tháng cho ông và con trai ông là Bùi Minh Q không đúng đối tượng.

Ngày 23/01/2019, Chủ tịch UBND huyện M thành lập Đoàn thanh tra liên ngành, tiến hành thẩm tra, xác minh, có Báo cáo số 01/BC-ĐTT ngày 23/4/2019. Trên cơ sở kết quả thẩm tra xác minh của Đoàn thanh tra, Chủ tịch UBND huyện M đã ban hành Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 có nội dung: Đối với ông Bùi Sinh Q: Theo đơn tố cáo cho rằng vào khoảng năm 1967, gia đình ông Q lên ở vùng địch, đi lính cho chế độ Mỹ - Ngụy; qua thẩm tra, xác minh không có chứng cứ để khẳng định ông Bùi Sinh Q đi lính cho địch. Đối chiếu giữa bản khai làm chế độ của ông Bùi Sinh Q với Biên bản thẩm tra, xác minh thì mâu thuẫn không trùng khớp về nhiệm vụ công tác được giao, thời gian tham gia cách mạng, cũng như thành tích đóng góp cho kháng chiến, quy trình xét duyệt khen thưởng của xã Đ không đúng quy định. Như vậy, ông Bùi Sinh Q đã lợi dụng những người kháng chiến trước năm 1975 để khai khống thành tích kháng chiến, mục đích khai khống để được hưởng chế độ Huân chương kháng chiến và chất độc hóa học là không đúng Nghị định 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ. Giao Trưởng phòng Nội vụ huyện tham mưu cho Chủ tịch UBND huyện chỉ đạo và hướng dẫn Chủ tịch UBND xã Đ lập thủ tục đề nghị cấp có thẩm quyền thu hồi Huân chương kháng chiến hạng Ba tại Quyết định số 1232/QĐ-CTN ngày 16/8/2012 tặng cho ông Bùi Sinh Q, Giao cho Trưởng phòng LĐ-TB & XH huyện lập thủ tục tham mưu Chủ tịch UBND huyện đề nghị cấp có thẩm quyền cắt và thu hồi tiền đã chi trợ cấp cho ông Bùi Sinh Q hưởng không đúng chính sách với tổng số tiền 73.561.000 đồng. Trong đó: Tiền trợ cấp đối với người có công giúp đỡ cách mạng là 49.049.000 đồng; Tiền trợ cấp nhiễm chất độc hóa học là 24.512.000 đồng.

Đối với ông Bùi Minh Q: Ông Bùi Minh Q làm hồ sơ con của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là không đúng với Nghị định 31/2013/NĐ- CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ. Vì, ông Bùi Sinh Q cha của ông Bùi Minh Q không có thành tích tham gia đóng góp kháng chiến. Giao cho Trưởng phòng LĐ- TB&XH huyện lập thủ tục tham mưu Chủ tịch UBND huyện đề nghị cấp có thẩm quyền cắt chế độ trợ cấp cho ông Bùi Minh Q (con của ông Bùi Sinh Q); miễn thu hồi số tiền đã trợ cấp cho ông Q từ tháng 3/2018 đến tháng 3/2019 với số tiền 11.581.000 đồng.

Không đồng ý với Kết luận số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M, ông Bùi Sinh Q phát sinh các đơn khiếu nại đề ngày 20/7/2019, 18/8/2019. Chủ tịch UBND huyện M đã thụ lý, xác minh khiếu nại của ông Bùi Sinh Q và ban hành Quyết định số 4889/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 giải quyết không công nhận nội dung đơn khiếu nại của ông Q. Không thống nhất với việc giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện M, ông Bùi Sinh Q phát sinh đơn đề ngày 11/11/2019 tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch UBND tỉnh. Trên cơ sở báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh nội dung khiếu nại của Thanh tra tỉnh tại Báo cáo số 37/BC- TTT ngày 28/4/2020 và Biên bản đối thoại ngày 22/05/2020, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 10/6/2020 giải quyết không công nhận toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Bùi Sinh Q.

Ý kiến của Chủ tịch UBND tỉnh đối với nội dung vụ kiện và yêu cầu của ông Bùi Sinh Q:

Điều kiện để được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba: Năm 2009, ông Bùi Sinh Q đã được Chủ tịch nước ban hành Quyết định số 757/QĐ- CTN ngày 01/6/2010 tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Đến năm 2011, ông Bùi Sinh Q tiếp tục lập hồ sơ đề nghị khen thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba theo thủ tục như những trường hợp được xét duyệt lần đầu là không đảm bảo quy định về quy trình xét duyệt do Viện Huân chương hướng dẫn tại mục A.6 Hướng dẫn số 172-VHC ngày 09/9/1986 về việc hướng dẫn vòng II khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; các căn cứ và quy trình xét duyệt: “Đối với trường hợp khen sai mức hạng do xét duyệt thì đơn vị cơ sở giải thích cho đương sự thông suốt, rồi làm văn bản đề nghị điều chỉnh mức khen lên cấp trên kèm theo bản khai thứ hai còn giữ lại ở địa phương hoặc đơn vị. Khi có quyết định khen thưởng mới thì hiện vật khen thưởng cũ phải được thu hồi gửi về Viện Huân chương trước khi Viện Huân chương cấp hiện vật khen thưởng mới. Nếu cấp trên không đồng ý điều chỉnh mức khen thì đơn vị cơ sở phải thông báo cho đương sự rõ”. Ngoài ra, thủ tục họp xét cho trường hợp ông Bùi Sinh Q của UBND xã và Hội đồng Thi đua - Khen thường xã Đ không đảm bảo về thời điểm họp xét là vào ngày 05/10/2011 nhưng đến ngày 14/10/2011, ông Q mới phát sinh hồ sơ đề nghị xét tặng. Nội dung Bản khai của nhân dân về thành tích giúp đỡ cách mạng của ông Bùi Sinh Q vào năm 2011 có thành tích đóng góp cao hơn so với Bản khai nhân dân của ông năm 2009, nội dung khai thành tích tăng lên như vậy là để đủ điều kiện được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba. Tuy nhiên qua các lần xác minh cho thấy, theo lời khai của hai nhân chứng xác nhận vào Bản khai ngày 14/10/2011 của ông Bùi Sinh Q là ông Võ Văn N và bà Biện Thị T thì ông Bùi Sinh Q có tham gia đóng góp cho cách mạng với một số thành tích như: Khoảng năm 1965-1967, ông Bùi Sinh Q nắm tình hình địch, có đưa cho ông Võ Văn N 06, 07 quả lựu đạn; mua thuốc tây, cảnh giới địch; quyên góp lương thực, thực phẩm cho cách mạng. Còn đối với các nhân chứng mới do ông Bùi Sinh Q cung cấp gồm ông Nguyễn T, ông Nguyễn Ngọc T, bà Trương Thị S thì xác nhận có gặp ông Bùi Sinh Q khiêng thương giao cho Bệnh viện, gặp ông đi dân công cõng gạo lên huyện T, thường xuyên đem thuốc men đóng góp cho bộ đội nhưng đều không rõ cụ thể là khoảng thời gian nào. Đồng thời, tại buổi làm việc với Thanh tra tỉnh vào ngày 22/11/2017, ông Bùi Sinh Q trình bày từ năm 1964- 1970, ông Bùi Sinh Q có tham gia một số hoạt động cách mạng như các nhân chứng nêu ở trên, có đóng góp lương thực, thuốc men cho cách mạng và thừa nhận việc ông man khai thành tích kháng chiến xuyên suốt từ năm 1964-1975 tại hồ sơ đề nghị khen thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba của ông, với mức đóng góp như vậy là không đúng.

Căn cứ Nghị quyết số 47/NQ/HĐNN7 ngày 29/9/1981 của Hội đồng Nhà nước về ban hành Điều lệ khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì ông Bùi Sinh Q không đủ điều kiện tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba.

Về việc hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học: Ông Bùi Sinh Q xác lập hồ sơ để ông và con đẻ là ông Bùi Minh Q được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng cho người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của người tham gia hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học trên cơ sở bằng chứng kèm theo hồ sơ được khen thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba của ông. Đến nay, những bằng chứng này không còn đảm bảo tính chính xác, việc xét khen tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba cho ông Bùi Sinh Q không đúng quy định pháp luật.

Căn cứ theo quy định tại Điều 27, Điều 28 Thông tư số 05/2013/TT BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân, quy định về Hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học: “Một trong những giấy tờ chứng minh thời gian tham gia hoạt động kháng chiến tại vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học: Quyết định phục viên, xuất ngũ giấy X Y Z, giấy chuyển thương, chuyển viện, giấy điều trị giấy tờ khác chứng minh có tham gia hoạt động kháng chiến tại vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học được xác lập từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 trở về trước. Bản sao: Lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, lý lịch quân nhân, Huân chương, Huy chương chiến sĩ giải phóng” thì hồ sơ hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng của ông Bùi Sinh Q trên cơ sở bằng chứng để xét tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba không còn đảm bảo tính pháp lý. Do đó, việc cắt trợ cấp hàng tháng của ông Bùi Sinh Q và con đẻ của ông là ông Bùi Minh Q là có cơ sở.

Nhằm đảm bảo quyền lợi cho công dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Công văn số 2611/UBND-NC ngày 10/6/2020 về việc chỉ đạo xử lý liên quan đến nội dung khiếu nại của ông Bùi Sinh Q; theo đó, UBND huyện M có trách nhiệm chỉ đạo các phòng chuyên môn và UBND xã Đ rà soát, hướng dẫn ông Bùi Sinh Q lập thủ tục đề nghị tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất theo đúng quy định (nếu chưa được tặng thưởng). Do đó, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 10/6/2020 không công nhận toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Bùi Sinh Q là đúng quy định của pháp luật và có cơ sở thực tiễn, yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Sinh Q hiện nay là không có căn cứ pháp lý để giải quyết.

Người bị kiện, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q trình bày:

- Đối với hồ sơ người có công giúp mạng của ông Bùi Sinh Q.

Hồ sơ gồm có: Bản khai cá nhân của ông Bùi Sinh Q lập ngày 16/7/2013, được UBND xã Đ xác nhận ngày 17/7/2013; Bản sao Huân chương kháng chiến hạng Ba theo Quyết định số 1232/QĐ/CTN ngày 16/8/2012, sổ vàng số 108; Bản sao chứng minh nhân dân của ông Bùi Sinh Q; Quyết định số 79/QĐ-SLĐTBXH ngày 09/12/2013 của Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về việc trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đối với ông Bùi Sinh Q kể từ tháng 12 năm 2013, số triền trợ cấp 718.000đ/tháng.

Cơ sở pháp lý: Điều kiện giải quyết trợ cấp: Tại khoản 2 Điều 52 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định người có công giúp đỡ cách mạng được tặng Huân chương kháng chiến: “Người có công giúp đỡ cách mạng trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến được hưởng chế độ ưu đãi từ ngày Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ra Quyết định”.

Hồ sơ giải quyết chế độ: Tại Điều 37 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định: “(1) Bản khai cá nhân; (2) Bản sao một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công”, “Bằng có công với nước”, Huân chương kháng chiến, Huy chương kháng chiến, Quyết định khen thưởng; (3) Quyết định trợ cấp hàng tháng hoặc một lần”.

Mức trợ cấp ưu đãi: Tại Phụ lục I Nghị định số 101/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối người có công giúp đỡ cách mạng được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, thời điểm tháng 12 năm 2013, số tiền trợ cấp 718.000đ/tháng.

Như vậy, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q ban hành Quyết định số 79/QĐ-SLĐTBXH ngày 09/12/2013 về việc trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đối vối ông Bùi Sinh Q kể từ tháng 12 năm 2013, số tiền trợ cấp 718.000đ/tháng là đúng quy định.

- Đối với hồ sơ người hoạt động kháng chiến và con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học của ông Bùi Sinh Q và ông Bùi Minh Q (con đẻ ông Q):

Hồ sơ gồm có: Bản khai cá nhân của ông Bùi Sinh Q, sinh năm 1943, lập ngày 16/7/2017 được UBND xã Đ xác nhận ngày 21/8/2017 (Phần khai về con đẻ ghi: con là Bùi Minh Q, sinh năm 1987 dị dạng, dị tật chậm phát triển tâm thần mức độ rất nặng); Bản sao giấy khai sinh của anh Bùi Minh Q; Bản sao Huân chương kháng chiến hạng Ba của ông Bùi Sinh Q (kèm theo bản sao bản khai thành tích khen thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba); Giấy xác nhận dị dạng, dị tật bẩm sinh của anh Bùi Minh Q do Trạm y tế xã Đ xác nhận ngày 13/11/2017.

Qua kiểm tra hồ sơ đủ điều kiện, ngày 22/12/2017, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội giới thiệu anh Bùi Minh Q (con đẻ ông Q) đến Hội đồng Giám định y khoa tỉnh Q để khám giám định kết luận dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm chất độc hóa học;

Ngày 28/3/2018, Hội đồng Giám định y khoa tỉnh Q có biên bản số 88/GĐYK-CĐHH kết luận anh Bùi Minh Q chậm phát triển tâm thần mức độ nặng tổng thương cơ thể 65%;

Ngày 16/4/2018, Sở Y tế cấp Giấy chứng nhận số 33/SYT-GXN chứng nhận mắc bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến nhiễm chất độc hóa học đối với ông Bùi Sinh Q cha đẻ của anh Bùi Minh Q và Giấy chứng nhận số 34/SYT-GXN chứng nhận mắc bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến nhiều chất độc hóa học đối với anh Bùi Minh Q.

Quyết định số 29/QĐ-SLĐTBXH ngày 20/01/2018 của Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về việc trợ cấp ưu đãi hàng tháng người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với ông Bùi Sinh Q, bị mắc bệnh suy giảm khả năng lao động từ 40% - 60% kể từ tháng 3/2018, mức trợ cấp là 1.799.000đồng/tháng (theo Nghị định 70/2017/ND-CP ngày 06/02/2017).

Quyết định số 30/QĐ-SLĐTBXH ngày 20/4/2018 của Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội về việc trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối anh Bùi Minh Q, suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%, kể từ tháng 3/2018 là 850.000đ/tháng (theo Nghị định 70/2017/NĐ-CP ngày 06/02/2017).

Căn cứ pháp lý: Điều kiện và thủ tục hồ sơ giải quyết chế độ: Tại khoản 2 Điều 27 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 và điểm a và b khoản 1 Điều 5 Thông tư số 16/2014/TT-BLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định một trong những giấy tờ chứng minh thời gian tham gia hoạt động kháng chiến tại vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học: Quyết định phục viên, xuất ngũ; giấy X Y Z; giấy chuyển thương, chuyển viện, giấy điều trị; giấy tờ khác chứng minh có tham gia hoạt động kháng chiến tại vùng mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hóa học được xác lập từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 trở về trước; Bản sao: Lý lịch cán bộ, lý lịch đảng viên, lý lịch quân nhân, Huân chương, Huy chương chiến sĩ giải phóng; Bản sao một trong các giấy tờ: Lý lịch công an nhân dân; hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội;

hồ sơ khen thưởng tổng kết thành tích tham gia kháng chiến; hồ sơ, giấy tờ khác có giá trị pháp lý được lập trước ngày 01 tháng 01 năm 2000; Giấy xác nhận của cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng về phiên hiệu, ký hiệu, thời gian và địa bàn hoạt động của đơn vị.

Tại Điều 28 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định hồ sơ hưởng trợ cấp ưu đãi đối con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học: (1) Bản khai cá nhân; (2) bản sao giấy khai sinh; (3) một trong những giấy tờ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ quy định tại khoản 2 Điều 27 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 và điểm a và b khoản 1 Điều 5 Thông tư số 16/2014/TTBLĐTBXH ngày 30/7/2014 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nêu trên); (4) Biên bản giám định dị dạng, dị tật của Hội đồng giám định y khoa có thẩm quyền kết luận dị dạng, dị tật bẩm sinh do nhiễm chất độc hóa học và tỷ lệ suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên; (5) Giấy chứng nhận dị dạng, dị tật do ảnh hưởng của chất độc hóa học do Giám đốc Sở Y tế cấp.

Tại tiết 2 điểm d khoản 2 Điều 29 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội quy định trường hợp sinh con dị dạng, dị tật mà không mắc bệnh theo danh mục bệnh tật do Bộ Y tế quy định, Sở Lao động-Thương binh và Xã hội giới thiệu con dị dạng, dị tật ra Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh.

Tại điểm d khoản 2 Điều 29 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tiếp nhận đủ hồ sơ do Sở Y tế chuyển đến, có trách nhiệm ra quyết định trợ cấp, phụ cấp đối với những trường hợp đủ điều kiện.

+ Mức trợ cấp ưu đãi: Tại Phụ lục I Nghị định số 70/2017/NĐ-CP ngày 06/6/2017 của Chính phủ quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng, theo đó mức trợ cấp ưu đãi hàng tháng người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là 1.799.000đồng/tháng; mức trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là 850.000đ/tháng.

Như vậy, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Quyết định số 29/QĐ-SLĐTBXH ngày 20/4/2018 về việc trợ cấp ưu đãi hàng tháng người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối ông Bùi Sinh Q, kể từ tháng 3/2018, mức trợ cấp 1.799.000đồng/tháng và Quyết định số 30/QĐ-SLĐTBXH ngày 20/4/2018 về việc trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với ông Bùi Minh Q, kể từ tháng 3/2018, mức trợ cấp 850.000đ/tháng là đúng quy định pháp luật.

- Về việc thu hồi quyết định trợ cấp người có công giúp đỡ cách mạng, quyết định người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và quyết định trợ cấp con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học.

Tại Điều 43 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định thủ tục xử lý đối với những trường hợp khai man, giả mạo giấy tờ để hưởng chế độ ưu đãi: Trường hợp kết luận đối tượng khai man, giả mạo hồ sơ thì Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ra quyết định đình chỉ chế độ, thu hồi quyền lợi đã hưởng sai, đề nghị cơ quan, đơn vị xác lập hồ sơ người có công thu hồi giấy tờ đã cấp và chuyển các cơ quan có liên quan để xử lý theo pháp luật hiện hành”.

Căn cứ Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 10/6/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Q về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) của ông Bùi Sinh Q; Công văn số 636/UBND ngày 07/6/2021 của Ủy ban nhân dân huyện M về việc đề nghị đình chỉ và thu hồi chế độ trợ cấp người có công giúp đỡ cách mạng đối với ông Bùi Sinh Q; đề nghị đình chỉ và thu hồi chế độ người hoạt động kháng chiến và con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với ông Bùi Sinh Q và anh Bùi Minh Q (con đẻ ông Q).

Ngày 08/6/2021, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Quyết định: số 123/QĐ-SLĐTBXH về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp hàng tháng người có công giúp đỡ cách mạng đối với ông Bùi Sinh Q; số 124/QĐ SLĐTBXH về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp hàng tháng người hoạt động kháng chiến đối với ông Bùi Sinh Q; số 125/QĐ-SLĐTBXH về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp hàng tháng con đẻ người hoạt động kháng chiến bị phơi nhiễm chất độc hóa học đối với anh Bùi Minh Q.

Như vậy, việc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành quyết định thu hồi trợ cấp người có công giúp đỡ cách mạng, quyết định người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học của ông Bùi Sinh Q và quyết định thu hồi trợ cấp con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với anh Bùi Minh Q là đúng quy định pháp luật.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND xã Đ, huyện M, tỉnh Q:

Về trình tự xác lập hồ sơ: (1) Giai đoạn năm 2009: Ông Bùi Sinh Q sinh năm 1943 hiện có hộ khẩu tại thôn Đ - xã Đ - huyện M - tỉnh Q. Sau khi tiếp nhận hồ sơ của ông Bùi Sinh Q, vào ngày 29/7/2009, Hội đồng thi đua khen thưởng xã Đ xét duyệt hồ sơ Huân, Huy chương tại buổi họp có tổng cộng 249 đối tượng được đưa ra xét trong đó có tên ông Bùi Sinh Q. Tại buổi họp Hội đồng xét duyệt thống nhất đề nghị tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng I cho ông Bùi Sinh Q. Nhưng tại thời điểm đó ông Q không làm hồ sơ gửi UBND xã và Hội đồng xét duyệt để xác lập hồ sơ theo quy định. (2) Giai đoạn năm 2011-2014: Vào năm 2011, Hội đồng chính sách xã có tổ chức họp xét cho 200 đối tượng đề nghị tặng thưởng thành tích kháng chiến, nhưng không có hồ sơ của ông Bùi Sinh Q đưa ra họp xét.

Nội dung xác minh qua đơn khiếu nại: Đến ngày 09/11/2018, UBND xã Đ tiếp nhận đơn tố cáo tập thể của một số thành viên Chi hội Cựu chiến binh thôn Đ, xã Đ, huyện M, tỉnh Q về việc ông Bùi Sinh Q đang hưởng trợ cấp hàng tháng thành tích Huân chương kháng chiến hạng Ba. UBND xã Đ đã tiến hành thành lập tổ xác minh đối với hồ sơ đang hưởng chế độ có công Cách mạng của ông Bùi Sinh Q.

Sau khi xác minh hồ sơ theo đơn tố cáo của một số đối tượng UBND xã Đ tóm tắt nội dung xác minh như sau: Trong đơn tố cáo có ông Nguyễn A, Võ Văn B, Đinh Thị Tuyết M, Trần Hồng Q, Trần Minh V và ông Phạm Ngọc H. Qua nội dung làm việc với các ông bà đã trả lời với nội dung như sau: (1) Đối với ông Nguyễn A tại thời điểm tố cáo quá trình tham gia hoạt động của ông Bùi Sinh Q, ông này đang ở trong tù vì vậy không rõ. (2) Đối với ông Võ Văn B, ông khai từ năm 1970 đến 1974 tham gia đội thiếu niên tiền phong xã Đ; vì vậy biết rõ quá trình tham gia hoạt động của ông Bùi Sinh Q như đơn tố cáo là hoàn toàn đúng sự thật. Mặc dù đơn tố cáo này do ông Trần Minh V viết nhưng ông có xem nội dung và thống nhất. (3) Đối với bà Đinh Thị Tuyết M, từ năm 1970 đến năm 1973 tham gia thanh niên xung phong huyện M và TNXP Trường Sơn vì vậy bà không biết quá trình tham gia của ông Bùi Sinh Q, bà ký đơn là do ông Trần Minh V đưa cho bà ký và bản thân bà nhận thấy nếu đúng như vậy thì đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét lại nên ký vào đơn. (4) Đối với ông Trần Hồng Q khai biết rõ về quá trình hoạt động của ông Bùi Sinh Q, tháng 8/1972 ông Q chạy về địa phương sau đó tham gia du kích thôn do ông Nguyễn Anh T phụ trách, lúc đó ông biết ông Q mang một khẩu súng M72 đến cuối tháng 8/1972 ông Q mang vũ khí chạy lên đầu hàng địch sau đó làm gì ông không biết. (5) Đối với ông Trần Minh V: Tham gia cách mạng từ 8/1972 vào đội quyết tử của xã đến năm 1973 về làm thôn đội đến năm 1975, vì vậy ông biết lúc đó ông Q tham gia du kích thôn do ông Phạm D làm thôn đội trưởng. Ông có thấy ông Q mang súng M72 gần một tháng sau thì ông Q chạy lên vùng địch, còn việc có mang súng theo hay không thì ông không biết ông chỉ biết ông Q chạy lên vùng địch ở Đức Vinh (nay là Đ) sinh sống còn việc chiêu hồi hay không thì ông không biết, có tham gia vào lực lượng của địch hay không ông cũng không biết. (6) Đối với ông Phạm Ngọc H: tham gia du kích xã từ 4/1972 đến tháng 8/1972 đi bộ đội thuộc đơn vị 288 huyện đội M chức vụ là chiến sĩ. Ông chỉ nghe một số người nói lại vào ngày 15/9/1972 chiến dịch mùa hè đó ông Q tham gia du kích thôn lúc đó ông V làm thôn đội trưởng và ông Q mang súng chiêu hồi ở Đ. Toàn bộ sự việc ông chỉ nghe nói lại vì lúc đó ông tham gia bộ đội. (7) Ngoài những đối tượng đã ký trong hồ sơ được làm việc lấy lời khai thì tổ còn làm việc với ông Nguyễn Anh T, hiện ở Khu dân cư 21 - thôn Đ - xã Đ. Ông T cho biết tham gia cách mạng từ 1971-1972 làm thôn đội phó từ 1973, 1975 làm xã đội phó. Ông được biết gia đình ông Bùi Sinh Q trước đây là có công đóng góp cho cách mạng, năm 1966-1967 ông Q tham gia vào đội thiếu niên của thôn. Đến năm 1968- 1971, ông Q cùng gia đình lên vùng địch ở với lý do trốn đi lính chứ không tham gia gì cho địch. Đến tháng 8/1972 ông cùng gia đình chạy về ở từ 1 đến 2 tháng nhưng không tham gia gì cho cách mạng. Sau đó cùng gia đình chạy lên vùng địch ở từ đó đến năm 1975 ông Q tham gia vào đội Phòng vệ dân sự (có vũ trang) của xã Đức Lương. Sau năm 1975 gia đình về địa phương sinh sống.

UBND xã Đ sau khi nghe phản ảnh, tố cáo về hồ sơ Huân chương của ông Bùi Sinh Q đã tiến hành kiểm tra sao lục lại hồ sơ của ông Bùi Sinh Q xác lập năm 2011 thì tại thời điểm đó, UBND xã và Hội đồng xét duyệt chính sách xã không nhận hồ sơ đồng thời cũng không thành lập Hội đồng xét duyệt đối với hồ sơ của ông Bùi Sinh Q vào ngày 14/10/2011.

Quan điểm của địa phương: UBND xã Đ nhận thấy hồ sơ ông Bùi Sinh Q xác lập không đúng trình tự thủ tục và qua xác minh nhiều đối tượng cho rằng ông Bùi Sinh Q có tham gia đóng góp cho Cách mạng nhưng thành tích không xứng đáng hưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Vì vậy, UBND xã và Hội đồng xét duyệt chính sách xã đề nghị thu hồi Huân chương kháng chiến hạng Ba của ông Bùi Sinh Q và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Sinh Q tại Tòa.

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện:

Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M kết luận ông Bùi Sinh Q không đi lính cho địch. Chủ tịch UBND huyện M căn cứ vào nội dung các đơn tố cáo để kết luận đối với ông Q là chưa đúng pháp luật, không đúng với công lao hoạt động cách mạng của ông Q. Việc xét huy chương hay huân chương là căn cứ vào thời gian ông Q tham gia hoạt động cách mạng, ông Q tham gia hoạt động cống hiến cho cách mạng là hơn 10 năm. Căn cứ theo Nghị định số 131/2021/NĐ-CP ngày 30/12/2021 về quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng của Chính phủ thì ông Q vẫn được xét tặng thưởng huân, huy chương. Về chế độ hưởng chất độc hóa học, ông Q là người tham gia hoạt động cách mạng, hoạt động ở vùng bị nhiễm chất độc Đioxin nên ông Q thuộc đối tượng hưởng trợ cấp theo quy định tại Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Sinh Q.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 10/2022/HC-ST ngày 14/4/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Q đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116; khoản 1 Điều 173; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 194; Điều 204 Luật tố tụng hành chính; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ Điều 38; Điều 43, Điều 50 Luật Thanh tra; Điều 19, Điều 31 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; các Điều 18, Điều 21, Điều 27, Điều 29, Điều 30, Điều 31, Điều 36, Điều 38, Điều 39, Điều 40 Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị quyết số 47/NQ/HĐNN7 ngày 29/9/1981 của Hội đồng Nhà nước về ban hành Điều lệ khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Mỹ cứu nước; Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội về hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân.

Tuyên xử:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Sinh Q về việc yêu cầu Tòa án tuyên hủy:

- Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M về việc kết luận đối với ông Bùi Sinh Q và anh Bùi Minh Q.

- Quyết định số 4889/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 của Chủ tịch UBND huyện M về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 10/6/2020 của Chủ tịch UBND tỉnh Q về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) của ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 123/QĐ-SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đối với ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 124/QĐ-SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định cấp giấy chứng nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và trợ cấp hàng tháng đối với ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 125/QĐ-SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với anh Bùi Minh Q.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí.

Ngày 24/4/2022, người khởi kiện ông Bùi Sinh Q có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện ông Bùi Sinh Q giữ nguyên nội dung khởi kiện và yêu cầu kháng cáo. Ông Bùi Sinh Q cũng như người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Bùi Sinh Q cho rằng, khi ông Q làm hồ sơ để tặng thưởng Huân chương thì xã Đ không tổ chức họp Hội đồng để xét duyệt đề nghị mà chỉ làm văn bản hợp thức rồi đưa cho các thành viên trong Hội đồng xét duyệt ký đề nghị. Từ việc làm sai của UBND xã Đ về quy trình mà cắt tất cả các chế độ của ông Q, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông Q và con ông Q nên ông Q yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng, về phần thủ tục tố tụng ở giai đoạn phúc thẩm đảm bảo đúng quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện ông Bùi Sinh Q và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về phần thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm người bị kiện Chủ tịch UBND tỉnh Q, Chủ tịch UBND huyện M đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Người bị kiện Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Q vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt các đương sự. Đây là phiên tòa phúc thẩm mở lần thứ 2 đã được triệu tập hợp lệ, những người bị kiện đã trình bày rõ tại hồ sơ, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên căn cứ điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về phần nội dung: Ngày 10/7/2009, ông Bùi Sinh Q có Đơn xin kê khai thành tích kháng chiến và Bản khai của nhân dân về thành tích giúp đỡ cách mạng và tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tại Bản khai của nhân dân ngày 10/7/2009, ông Q khai: năm 1964-1968 đi dân công mỗi năm 03 lần, mỗi lần 01 tháng đến 01 tháng 15 ngày, cõng hàng từ T về Q; trước chiến dịch năm 1968 đi dân công vận tải thương binh 01 tháng phục vụ chiến dịch tết Mậu Thân. Ủng hộ cho cách mạng 30 lọ thuốc Penicilin và 05 hộp thuốc B12 và B1. Năm 1969-1972, sống hợp pháp ở khu đồi núi Ông Đ nắm tình hình báo cáo cho du kích xã mỗi tháng 03 lần. Lấy trộm lựu đạn của địch đem về giao cho du kích xã Đ mỗi năm 01 lần; mỗi lần 05 đến 10 quả; ủng hộ cho du kích 01 thùng mắm cái, 02 cái võng nilông, 06 mét nilông đi mưa. Cũng trong thời gian này nhận rải truyền đơn mỗi năm 02 lần, mỗi lần 100 tờ đến 150 tờ. Bản khai thành tích của ông Bùi Sinh Q được ông Võ Văn N xác nhận vào ngày 12/7/2009 và bà Biện Thị T xác nhận vào ngày 14/7/2009 có nội dung cơ bản giống như nội dung ông Bùi Sinh Q đã kê khai và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề nghị; ngày 01/6/2010 Chủ tịch nước ban hành Quyết định số 757/QĐ-CTN tặng Huy chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất cho ông Bùi Sinh Q.

Ngày 14/10/2011, ông Bùi Sinh Q tiếp tục có Đơn xin đề nghị xét khen thưởng thành tích kháng chiến. Tại Bản khai của nhân dân đề nghị khen thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba. Ông Q khai: Từ năm 1964-1968, ủng hộ cách mạng 150 lọ thuốc Penicilin, 140 lọ thuốc Streptamycin, 50 hộp B12, đi dân công mỗi năm 04 lần, mỗi lần 45 ngày chuyển thương binh lên T và chuyển hàng hóa từ T về M. Năm 1969-1972, làm cơ sở hợp pháp ở núi Ông Đ, nhận rải truyền đơn mỗi năm 2 lần, mỗi lần 5000 tờ; dẫn đường cho du kích và bộ đội đánh địch mỗi năm 3 lần; mỗi lần diệt được 08-10 tên địch. Năm 1970, vận động được 3 tên lính nghĩa quân mang súng đạn quay về với cách mạng. Ngoài ra, còn lấy được 50 quả lựu đạn, 50 băng đạn AR15 về giao cho du kích đánh địch, ủng hộ cho cách mạng 02 thùng mắm cái, 20 cái võng nilông, 50 mét nilông đi mưa. Từ năm 1973- 1975, đi dân công làm đường Trường Sơn, mỗi năm 02 lần, mỗi lần 02 tháng; ủng hộ cách mạng 150 kg gạo và 02 thùng mắm cái, có xác nhận của ông Võ Văn nghiệp và bà Biện Thị T cùng ngày 14/10/2011. Trên cơ sở đề nghị của UBND huyện M, UBND tỉnh Q; ngày 16/8/2012, Chủ tịch nước ban hành Quyết định số 1232/QĐ-CTN tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba cho ông Bùi Sinh Q.

Trên cơ sở đó, ngày 16/7/2017, ông Bùi Sinh Q xác lập hồ sơ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học cho ông và con trai là anh Bùi Minh Q để được hưởng chế độ theo quy định của nhà nước.

Năm 2018, theo đơn kiến nghị của Chi hội Cựu chiến binh thôn Đ, xã Đ, huyện M và Chi hội Cựu chiến binh Tổ dân phố 2, thị trấn M; Chủ tịch UBND huyện M đã thành lập Đoàn thanh tra để thẩm tra, xác minh các đơn kiến nghị nêu trên. Ngày 05/6/2019, Chủ tịch UBND huyện M ban hành Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND về việc kết luận đối với ông Bùi Sinh Q và anh Bùi Minh Q. Không đồng ý với Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND nói trên, ông Bùi Sinh Q khiếu nại. Ngày 21/10/2019, Chủ tịch UBND huyện M ban hành Quyết định số 4889/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Sinh Q. Không đồng ý với quyết định nói trên, ông Bùi Sinh Q tiếp tục khiếu nại. Ngày 10/6/2020, Chủ tịch UBND tỉnh Q ban hành Quyết định số 852/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần 2) của ông Bùi Sinh Q với nội dung không công nhận toàn bộ nội dung khiếu nại của ông Bùi Sinh Q.

Trên cơ sở các quyết định nói trên; cùng ngày 08/6/2021, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q ban hành các Quyết định số 123/QĐ- SLĐTBXH, số 124/QĐ-SLĐTBXH, số 125/QĐ-SLĐTBXH về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng và Quyết định cấp giấy chứng nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và trợ cấp hàng tháng đối với ông Bùi Sinh Q; thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với anh Bùi Minh Q.

[3] Từ những chứng cứ đã được phân tích trên cho thấy: Bản khai của nhân dân về thành tích giúp đỡ cách mạng và tham gia kháng chiến chống Mỹ năm 2011 của ông Bùi Sinh Q khác hoàn toàn so với bản khai của nhân dân năm 2009. Bản khai năm 2011 có một số nội dung khai về thành tích giúp đỡ cách mạng và đóng góp cao hơn từ 05-10 lần, thời gian tham gia cách mạng bổ sung thêm giai đoạn từ năm 1973-1975. Việc xác nhận thành tích cho ông Bùi Sinh Q có người không thừa nhận, có người xác nhận không rõ về thời gian, thành tích đóng góp cho Cách mạng. Trong quá trình làm việc với các cơ quan chức năng, ông Q trình bày thời gian tham gia cách mạng, thành tích đóng góp cho cách mạng của ông cũng không thống nhất với Bản khai của nhân dân ngày 14/10/2011; bản thân ông Bùi Sinh Q cũng thừa nhận việc khai về thành tích đóng góp cho cách mạng và thời gian tham gia kháng chiến của mình là chưa chính xác. Hơn nữa, việc lập hồ sơ đề nghị khen thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba cho ông Bùi Sinh Q có nhiều mâu thuẫn, không phù hợp về thời gian, không đảm bảo tính pháp lý về hồ sơ, cụ thể: UBND xã và Hội đồng thi đua khen thưởng xã Đ tổ chức họp xét, thẩm trả hồ sơ và có Tờ trình đề nghị khen thưởng cho ông Bùi Sinh Q trước khi ông Bùi Sinh Q có đơn đề nghị và bản khai của nhận dân về thành tích đóng góp cách mạng. Do đó, bản án sơ thẩm tuyên xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Sinh Q là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử cho đến nay, ông Bùi Sinh Q không cung cấp chứng cứ gì mới nên bác kháng cáo của người khởi kiện ông Bùi Sinh Q cũng như quan điểm của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[4] Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên ông Bùi Sinh Q phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Nhưng xét, ông Bùi Sinh Q là người cao tuổi nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính,

1/ Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Bùi Sinh Q và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; khoản 3, khoản 4 Điều 54; khoản 1 Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116; khoản 1 Điều 173; điểm a khoản 2 Điều 193;

Điều 194; Điều 204 Luật tố tụng hành chính; Điều 19, Điều 31 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; Điều 38; Điều 43, Điều 50 Luật Thanh tra; Điều 18, Điều 21, Điều 27, Điều 29, Điều 30, Điều 31, Điều 36, Điều 38, Điều 39, Điều 40 Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị quyết số 47/NQ/HĐNN7 ngày 29/9/1981 của Hội đồng Nhà nước về ban hành Điều lệ khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến chống Mỹ cứu nước; Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ trưởng Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng và thân nhân; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Sinh Q về việc yêu cầu Tòa án tuyên hủy:

- Kết luận thanh tra số 96/KLTT-UBND ngày 05/6/2019 của Chủ tịch UBND huyện M về việc kết luận đối với ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 4889/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 của Chủ tịch UBND huyện M về việc giải quyết khiếu nại của ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 825/QĐ-UBND ngày 10/6/2020 của Chủ tịch UBND tỉnh Q về việc giải quyết khiếu nại (lần hai) của ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 123/QĐ-SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp hàng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đối với ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 124/QĐ-SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định cấp giấy chứng nhận người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và trợ cấp hàng tháng đối với ông Bùi Sinh Q.

- Quyết định số 125/QĐ-SLĐTBXH ngày 08/6/2021 của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Q về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định trợ cấp ưu đãi hàng tháng đối với con đẻ người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học đối với anh Bùi Minh Q.

2/ Về án phí: Miễn án phí hành chính sơ thẩm và án phí hành chính phúc thẩm cho ông Bùi Sinh Q.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

417
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh vực chế độ, chính sách số 219/2022/HC-PT

Số hiệu:219/2022/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 05/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về