Bản án về khiếu kiện quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và quyết định giải quyết khiếu nại số 348/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 348/2023/HC-PT NGÀY 24/03/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ VÀ QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

Trong các ngày 09 và 24 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số 25/2022/TLPT-HC ngày 09 tháng 11 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và quyết định giải quyết khiếu nại”, do bản án hành chính sơ thẩm số 14/2022/HCST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 523/2023/QĐPT-HC ngày 13 tháng 02 năm 2023, giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Hợp tác xã Vận tải số 28.

Địa chỉ trụ sở: Số D, ấp D, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Nguyễn Ngọc B, Giám đốc Hợp tác xã V ủy quyền cho ông Huỳnh Khắc T, sinh năm 1976, địa chỉ cư trú: Số C đường N, Phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh làm người đại diện theo Văn bản ủy quyền ngày 17/6/2020; (Có mặt tại phiên tòa).

Người bị kiện:

1. Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ trụ sở: Số C đường số D, Khu trung tâm hành chính huyện B, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Phạm Ngọc L, Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh ủy quyền cho ông Nguyễn Văn T1 - Chi cục phó làm người đại diện theo Văn bản ủy quyền số 1135/GUQ-CCTBC ngày 12/12/2022; (Vắng mặt tại phiên tòa).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:

1. Ông Đỗ Hoài Â, Nhân viên Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; (Có mặt tại phiên tòa).

2. Ông Trần Ngọc Minh T2; Nhân viên Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; (Có mặt tại phiên tòa).

Người kháng cáo:

Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 17/6/2020 và các ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án người khởi kiện Hợp tác xã Vận tải số 28 có ông Huỳnh Khắc T là người đại diện theo ủy quyền yêu cầu: Hủy một phần Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thu tiền chậm nộp thuế; Hủy Quyết định số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 về việc giải quyết khiếu nại của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B; Buộc Chi cục Thuế huyện B hoàn trả lại cho Hợp tác xã Vận tải số 28 số tiền đã thu sai là 105.037.154 đồng. Với những lý do sau:

Ngày 15/01/2020, Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B ban hành Quyết định số 45/QĐ-CCT áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc Hợp tác xã Vận tải số 28 nộp các khoản tiền thuế còn thiếu gồm: Tiền thuế truy thu là 809.824.784 đồng + Tiền do chậm nộp là 758.157.968 đồng (cụ thể: tiền chậm nộp thuế GTGT là 195.729.227 đồng và tiền chậm nộp thuế TNDN là 562.428.741 đồng). Đối với tiền thuế truy thu Hợp tác xã đã thi hành xong và không có khiếu nại. Đối với tiền chậm nộp không đồng ý do thu không đúng.

Ngày 10/4/2020, Chi cục Thuế huyện B cưỡng chế thi hành quyết định hành chính bằng biện pháp trích tiền từ tài khoản của Hợp tác xã V tại Ngân hàng Thương mại cổ phần S - Chi nhánh B1 số tiền là 11.802.540 đồng. Hợp tác xã Vận tải số 28 đã nộp tiếp số tiền là 93.243.614 đồng theo ủy nhiệm chi ngày 22/5/2020. Tổng số tiền đã nộp cho mục tiền do chậm nộp là 105.037.154 đồng.

Việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thu tiền chậm nộp theo quyết định trên là không đúng quy định của pháp luật vì hành vi của Hợp tác xã Vận tải số 28 xảy ra từ năm 2007 đến 2011, thời điểm này Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 đang có hiệu lực pháp luật không quy định trách nhiệm của người nộp thuế phải nộp tiền chậm nộp trong trường hợp quá thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế. Cụ thể tại khoản 3 Điều 110 quy định: “Quá thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế thì người nộp thuế không bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế, số tiền trốn thuế, số tiền gian lận vào ngân sách nhà nước”.

Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B căn cứ quy định tại khoản 35 Điều 1 của Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 để ban hành quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả về việc thu tiền chậm nộp đối với Hợp tác xã Vận tải số 28 là trái quy định tại điểm a khoản 2 Điều 79 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 03/6/2008 và điểm a khoản 2 Điều 152 Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015.

Người bị kiện Chi cục Thuế huyện B và Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B trình bày:

Việc kiểm tra thuế tại trụ sở Hợp tác xã V niên độ kiểm tra từ năm 2007 đến hết năm 2011 được thực hiện theo Quyết định số 609/QĐ-CCT-KTT3 ngày 19/12/2019 của Chi cục Thuế huyện B. Qua kiểm tra xác định có vi phạm nên Chi cục trưởng đã ban hành Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả để truy thu số tiền thuế 809.824.787 đồng và tiền chậm nộp là 758.157.968 đồng (từ ngày 01/7/2013 đến ngày 15/01/2020). Hợp tác xã V đã đóng số tiền truy thu thuế là 809.824.787 đồng nhưng không đồng ý việc tính tiền chậm nộp vì cho rằng thời điểm khai thuế, cơ quan thuế chưa phát hiện hành vi vi phạm.

Ngày 10/4/2020, Chi cục Thuế huyện B đã thu 11.802.540 đồng do Ngân hàng Thương mại cổ phần S - Chi nhánh B1 trích nộp từ tài khoản của Hợp tác xã V. Ngày 22/5/2020, Hợp tác xã V đã nộp tiếp 93.243.614 đồng. Tổng số tiền đã thu cho khoản chậm nộp tiền thuế TNDN (tiểu mục 4918) là 105.037.154 đồng.

Đối với ý kiến của Hợp tác xã Vận tải số 28 căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 79 của Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 03/6/2008: “không được quy trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý” để xác định hành vi vi phạm xảy ra từ năm 2007 đến 2011 không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật số 21/2012/QH13, không thể áp dụng để tính tiền chậm nộp là không đúng. Chi cục Thuế huyện B xác định tiền chậm nộp căn cứ vào quy định tại Điều 106, Điều 110 của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006; khoản 32 và khoản 35 Điều 1, Điều 2 của Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 “sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11”; khoản 4 Điều 5, khoản 1 Điều 6 của Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 “sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 21/2012/QH13”; Khoản 3 Điều 3 của Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/4/2016 “sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế”. Hợp tác xã Vận tải số 28 có hành vi khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp niên độ kiểm tra từ ngày 01/01/2007 đến hết ngày 31/12/2011, hành vi vi phạm đã quá thời hiệu xử phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 110 của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 nên không bị xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, kể từ ngày 01/7/2013 trở đi theo quy định tại khoản 32 và khoản 35 Điều 1 của Luật số 21/2012/QH13, khoản 4 điều 5 Luật số 71/2014/QH13 và khoản 3 Điều 3 Luật số 106/2016/QH13 thì hình thức xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế đã được thay bằng biện pháp khắc phục hậu quả là tiền chậm nộp kể từ ngày 01/7/2013 tính trên số tiền thuế chưa nộp theo các quy định tương ứng với từng thời kỳ, như vậy quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 ban hành đúng quy định của pháp luật.

Ngày 23/3/2020, Chi cục Thuế huyện B nhận được đơn khiếu nại của Hợp tác xã V. Nội dung là khiếu nại một phần Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020, đề nghị xem xét lại khoản tiền chậm nộp là 758.157.968 đồng. Sau khi xem xét đơn khiếu nại và căn cứ vào các quy định của pháp luật Chi Cục thuế huyện B đã ban hành Quyết định số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 giải quyết khiếu nại với kết quả “Không công nhận nội dung đơn khiếu nại đề ngày 20/3/2020 của Hợp tác xã V. Yêu cầu Hợp tác xã V thực hiện Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 của Chi cục thuế huyện B”.

Từ những căn cứ pháp lý trên đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hợp tác xã Vận tải số 28 về việc hủy một phần Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 cùng của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, buộc Chi cục Thuế huyện B trả lại số tiền 105.037.154 đồng.

Tại bản án hành chính sơ thm số 14/2022/HC-ST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31, Điều 115, khoản 1 Điều 116, Điều 194, 206 Luật tố tụng hành chính năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 76, Điều 78, 79, 80, 106, khoản 3 Điều 110 Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006; khoản 32 và 35 Điều 1 và Điều 2 Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 “sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11”; điểm a khoản 2 Điều 79 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 03/6/2008; điểm a khoản 2 Điều 152 của Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hợp tác xã Vận tải số 28.

- Hủy một phần Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, thành phố Hồ Chí Minh về việc Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 5 Điều 1 của quyết định đối với số tiền chậm nộp tiền thuế là 758.157.968 (bảy trăm năm mươi tám triệu một trăm năm mươi bảy nghìn chín trăm sáu mươi tám) đồng. Trong đó: Tiền chậm nộp thuế GTGT (tiểu mục 4931): 195.729.227 (một trăm chín mươi lăm triệu bảy trăm hai mươi chín nghìn hai trăm hai mươi bảy) đồng và tiền chậm nộp thuế TNDN (tiểu mục 4918): 562.428.741 (năm trăm sáu mươi hai triệu bốn trăm hai mươi tám nghìn bảy trăm bốn mốt) đồng.

- Hủy Quyết định số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết khiếu nại của Hợp tác xã V (lần đầu).

2/ Chi cục thuế huyện B, thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm hoàn trả lại cho Hợp tác xã Vận tải số 28 số tiền chậm nộp tiền thuế mà Hợp tác xã V đã nộp là: 105.046.154 (một trăm lẻ năm triệu không trăm bốn mươi sáu nghìn một trăm năm mươi bốn) đồng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo.

Ngày 08 tháng 9 năm 2022 người bị kiện Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với lý do:

- Chi cục Thuế huyện B đã căn cứ đúng quy định của pháp luật để thu tiền thuế chậm nộp của Hợp tác xã V.

- Đề nghị sửa bản án sơ thẩm tuyên giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 cùng của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, bác yêu cầu buộc Chi cục Thuế huyện B trả lại số tiền 105.037.154 đồng của Hợp tác xã Vận tải số 28.

Ngày 09/9/2022, người bị kiện Chỉ cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh nộp tạm ứng án phí kháng cáo theo biên lai thu số AA/2021/041643.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Người kháng cáo là người bị kiện Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện có ý kiến:

+ Hành vi chậm nộp tiền thuế và hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp được quy định chế tài ở các điều luật khác nhau. Các hành vi trên có thời hiệu xử phạt là 05 năm kể từ ngày thực hiện vi phạm. Khi Hợp tác xã V khai thiếu nghĩa vụ thuế sẽ gây ra 02 hậu quả nên bị xử phạt đối với hành vi khai sai và hành vi chậm nộp.

+ Kê khai thuế sai gây ra hậu quả thiệt hại cho ngân sách Nhà nước nên phải khắc phục.

+ Quy định tại khoản 35 của Luật số 21/2012/QH13 sửa đổi khoản 3 Điều 110 thể hiện khi hết thời hiệu xử phạt nếu hành vi vi phạm gây ra hậu quả thì phải khắc phục cho dù vi phạm còn hay hết thời hiệu xử phạt do đó Chi cục Thuế huyện B buộc Hợp tác xã số 28 khắc phục hậu quả là đúng.

+ Theo khoản 32 của Luật số 21/2012/QH13 sửa đổi Điều 106 quy định hết thời hiệu không xử phạt nhưng phải nộp tiền chậm nộp đây là trường hợp thay đổi hình thức xử lý nhưng không làm thay đổi trách nhiệm của người vi phạm. Hợp tác xã số 28 phải nộp thuế kể từ thời điểm kê khai nhưng không nộp đúng hạn nên bị truy thu đồng thời vì khai sai do đó phải nộp tiền chậm nộp là đúng quy định của pháp luật.

+ Việc áp dụng buộc khắc phục hậu quả không phải là áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với chủ thể vi phạm do đó việc buộc Hợp tác xã số 28 nộp tiền chậm nộp không phải là quy định trách nhiệm pháp lý mới.

+ Các khoản 32 và 35 của Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 không quy định trách nhiệm pháp lý mới do đó không trái với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 03/6/2008 và Luật ban hành Văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015.

+ Bản án sơ thẩm nhận định chưa chính xác về tiền chậm nộp, viện dẫn không đúng quy định pháp luật nên tuyên án sai.

+ Đề nghị sửa bản án sơ thẩm tuyên bác yêu cầu của người khởi kiện, buộc Hợp tác xã số 28 tiếp tục nộp số tiền chậm nộp còn thiếu. Trường hợp cấp sơ thẩm có vi phạm tố tụng đề nghị hủy án.

- Người khởi kiện: Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

1. Về việc chấp hành pháp luật tố tụng trong giai đoạn phúc thẩm: Quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật.

2. Về kháng cáo của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B:

- Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ khoản 2 Điều 79 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 03/6/2008 và điểm a khoản 2 Điều 152 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015 để chấp nhận yêu cầu của Hợp tác xã Vận tải số 28 là không có cơ sở.

- Căn cứ khoản 1 Điều 156 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015 thì Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 được ban hành đúng quy định.

- Căn cứ khoản 32 và khoản 35 Điều 1 của Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 sửa đổi Điều 106 và Điều 110 của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 nếu hết thời hiệu xử phạt thì buộc nộp tiền chậm nộp, do đó quyết định của Chi cục Thuế huyện B buộc Hợp tác xã Vận tải số 28 nộp số tiền chậm nộp 758.157.968 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật và hướng dẫn tại Công văn số 3277/TCT-PC ngày 24/8/2018 của Tổng cục T3.

Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B, sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ trình bày của các đương sự; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện; ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Người khởi kiện Hợp tác xã V khởi kiện đối với: Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B; Buộc Chi cục Thuế huyện B hoàn trả số tiền thuế chậm nộp đã thu sai là 758.157.968 đồng là các quyết định hành chính trong lĩnh vực thuế được ban hành đối với Hợp tác xã V. Đơn khởi kiện nộp trong thời hiệu và được Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 31, điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính.

[2] Về thủ tục tố tụng, thời hạn kháng cáo:

- Đối với Chi cục Thuế huyện B, Tòa án cấp sơ thẩm xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không đúng mà phải xác định là người bị kiện. Tuy nhiên xét không làm thay đổi nội dung của việc xét xử và không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng trong vụ án do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm điều chỉnh lại cho đúng và yêu cầu cấp sơ thẩm cần phải rút kinh nghiệm.

- Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B nộp đơn kháng cáo và nộp án phí kháng cáo đúng thời hạn quy định tại Điều 204, 205, 206 Luật tố tụng hành chính năm 2015 nên là hợp lệ.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện có ông Nguyễn Văn T1 - Chi cục phó Chi cục Thuế huyện B là đại diện theo ủy quyền có đơn xin vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt người bị kiện.

[3] Về nội dung kháng cáo: Người bị kiện kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sửa bản án sơ thẩm tuyên giữ nguyên Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, bác yêu cầu buộc Chi cục Thuế huyện B trả lại cho Hợp tác xã Vận tải số 28 so tiền 105.037.154 đồng.

Xét nội dung kháng cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

1. Xét Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020:

1.1. Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành quyết định:

Ngày 02 và 08 tháng 01 năm 2020 Chi cục Thuế huyện B thực hiện việc kiểm tra trực tiếp thuế niên độ từ năm 2007 đến hết năm 2011 tại trụ sở Hợp tác xã Vận tải số 28 theo Quyết định số 609/QĐ-CCT-KTT3 ngày 19/12/2019 và đã tiến hành lập Biên bản xác nhận số liệu kiểm tra có giám đốc Hợp tác xã là ông Nguyễn Ngọc B ký xác nhận. Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B xác định Hợp tác xã Vận tải số 28 đã có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế nhưng đã hết thời hiệu xử phạt nên ban hành Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 “Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả” buộc nộp số tiền thuế truy thu và số tiền chậm nộp tiền thuế. Căn cứ quy định tại Điều 44 và Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 và khoản 1 Điều 76, khoản 1 Điều 77, khoản 1 Điều 87 của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 thể hiện việc kiểm tra, lập biên bản vi phạm về nghĩa vụ nộp thuế và ban hành quyết định hành chính nói trên đã được thực hiện đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền.

1.2. Về nội dung quyết định:

- Về nội dung buộc nộp số tiền thuế truy thu từ năm 2007 đến năm 2011 là 809.824.787 đồng là thu đúng quy định, Hợp tác xã Vận tải số 28 đã nộp đủ, không khởi kiện nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về nội dung buộc nộp số tiền chậm nộp tiền thuế là 758.157.968 đồng. Xét, vi phạm của Hợp tác xã Vận tải số 28 xảy ra từ năm 2007 đến năm 2011, tại thời điểm đó Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 đang có hiệu lực pháp luật, tại khoản 3 Điều 110 quy định: “Quá thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế thì người nộp thuế không bị xử phạt nhưng vẫn phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận vào ngân sách nhà nước” như vậy là không quy định trách nhiệm của người nộp thuế phải nộp tiền chậm nộp trong trường hợp quá thời hiệu xử phạt vi phạm pháp luật về thuế. Hành vi nộp thiếu thuế nói trên được thực hiện trước thời điểm Luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 “sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11” có hiệu lực pháp luật do đó việc Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B căn cứ khoản 35 Điều 1 Luật số 21/2012/QH13 để buộc Hợp tác xã Vận tải số 28 nộp số tiền chậm nộp tiền thuế là đã áp dụng điều luật có hiệu lực trở về trước, mà điều luật này trái với quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 79 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 03/6/2008 và điểm a khoản 2 Điều 152 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015. Như vậy nội dung thu số tiền chậm nộp tiền thuế tại điểm b khoản 5 Điều 1 của Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 là không đúng quy định của pháp luật. Bản án sơ thẩm tuyên hủy phần nội dung trên là có cơ sở.

2. Xét Quyết định số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020:

Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B có nội dung thu số tiền chậm nộp tiền thuế không đúng quy định pháp luật do đó Quyết định giải quyết khiếu nại số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 về việc không chấp nhận khiếu nại của Hợp tác xã V cũng là không đúng. Do đó bản án sơ thẩm tuyên hủy quyết định trên là có cơ sở.

3. Về yêu cầu buộc trả lại tiền đã thu:

Xét, việc thu tiền chậm nộp tiền thuế của Chi cục Thuế huyện B theo Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 là không đúng do đó bản án sơ thẩm tuyên buộc hoàn trả 105.037.154 đồng là có cơ sở.

4. Về các ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện. Căn cứ từ những nhận định trên xét là không có cơ sở.

5. Xét người kháng cáo là Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B không cung cấp được chứng cứ nào khác và không chứng minh được yêu cầu kháng cáo là có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận do đó giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Xét, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa phúc thẩm về việc chấp nhận kháng cáo của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B, sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện là không phù hợp với những nhận định trên của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên không chấp nhận.

[5] Đối với nội dung của Bản án sơ thẩm tuyên buộc Chi cục thuế huyện B, thành phố Hồ Chí Minh có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền chậm nộp tiền thuế mà Hợp tác xã V đã nộp là 105.046.154 đồng là không đúng vì theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính thì chỉ buộc Chi cục Thuế huyện B thực hiện nhiệm vụ, công vụ lập thủ tục hoàn trả lại cho người khởi kiện số tiền thuế đã thu chưa đúng, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm điều chỉnh lại cách tuyên án.

[6] Về án phí: Do yêu cầu không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí hành Chính phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Án phí hành chính sơ thẩm được giữ nguyên.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241; Điều 242; khoản 1 Điều 349 Luật tố tụng hành chính năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

[11 Bác kháng cáo của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B và Chi cục Thuế huyện B. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 14/2022/HC-ST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể như sau:

Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 1 Điều 31; Điều 115; khoản 1 Điều 116; Điều 194; Điều 206 của Luật tố tụng hành chính năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 76; Điều 78; Điều 79; Điều 80; Điều 106; khoản 3 điều 110 của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006; khoản 32, 35 Điều 1; Điều 2 của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012 “sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11”; điểm a, b khoản 2 Điều 79 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 ngày 03/6/2008; điểm a khoản 2 Điều 152 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Hợp tác xã Vận tải số 28.

- Hủy một phần Quyết định số 45/QĐ-CCT ngày 15/01/2020 về việc “Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả” của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh tại điểm b khoản 5 Điều 1 có nội dung thu số tiền chậm nộp tiền thuế là 758.157.968 đồng (bảy trăm năm mươi tám triệu một trăm năm mươi bảy nghìn chín trăm sáu mươi tám đồng) gồm: Tiền chậm nộp thuế GTGT (tiểu mục 4931) là 195.729.227 đồng (một trăm chín mươi lăm triệu bảy trăm hai mươi chín nghìn hai trăm hai mươi bảy đồng) và tiền chậm nộp thuế TNDN (tiểu mục 4918) là 562.428.741 đồng (năm trăm sáu mươi hai triệu bốn trăm hai mươi tám nghìn bảy trăm bốn mươi mốt đồng).

- Hủy Quyết định số 03/QĐ-CCT-GQKN ngày 09/4/2020 của Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh về việc giải quyết khiếu nại của Hợp tác xã V.

2/ Buộc Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định pháp luật lập thủ tục hoàn trả lại cho Hợp tác xã Vận tải số 28 số tiền chậm nộp tiền thuế đã thu là 105.046.154 đồng (một trăm lẻ năm triệu không trăm bốn mươi sáu nghìn một trăm năm mươi bốn đồng). Thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

3/ Về án phí hành chính sơ thẩm:

- Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh phải nộp án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

- Hợp tác xã Vận tải số 28 không phải nộp án phí. Hoàn trả lại cho Hợp tác xã Vận tải số 28 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2019/007965 ngày 01/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh.

[2] Về án phí hành Chính phúc thẩm: Chi cục trưởng Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thuế huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền đã tạm nộp theo biên lai thu số AA/2021/041643 ngày 09/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Án phí hành Chính phúc thẩm đã được nộp đủ.

[3] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và quyết định giải quyết khiếu nại số 348/2023/HC-PT

Số hiệu:348/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:24/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về