Bản án về khiếu kiện hủy quyết định hành chính số 660/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 660/2023/HC-PT NGÀY 08/08/2023 VỀ KHIẾU KIỆN HỦY QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH

 Ngày 08 tháng 8 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm là trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và điểm cầu thành phần là trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 830/2022/TLPT-HC ngày 05 tháng 12 năm 2022 về việc “Khiếu kiện yêu cầu hủy Quyết định số 779/QĐ-UBND ngày 25/12/2019 của UBND huyện C về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 71/2022/HC-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1819/2023/QĐPT-HC ngày 17 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:

Tại điểm cầu thành phần là trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai:

- Người khởi kiện: Ông Đinh Viết T, sinh năm 1970 (vắng mặt). Địa chỉ: Ấp Nam H, xã Xuân B, huyện C, tỉnh Đồng Nai mặt). Nai Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm: 1962 (có Địa chỉ: 30F/7, tổ 9, khu phố 2, phường Trảng D, thành phố B, tỉnh Đồng - Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đồng Nai Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn T – Chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C (xin vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Lê Văn B – Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện C (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Cụ Nguyễn Thị L, sinh năm 1943 (xin vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1975 (xin vắng mặt).

3. Chị Đinh Thị Kim X, sinh năm 1995 (xin vắng mặt).

4. Anh Đinh Viết Đ1, sinh năm 2002 (xin vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp Nam H, xã Xuân B, huyện C, tỉnh Đồng Nai Người kháng cáo: Người khời kiện là ông Đinh Viết T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người khởi kiện là ông Đinh Viết T và người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ông Đinh Viết T có quyền sử dụng đất đối với các thửa đất số: 44B, 72, 73, 74, 75, 76, 77, 78 và 79; tờ bản đồ số 8 xã Xuân Bảo Huyện C, tỉnh Đồng Nai. Vào ngày 25/12/2019 UBND huyện C ban hành các Quyết định thu hồi đất số: 539/QĐ-UBND, 540/QĐ-UBND, 541/QĐ-UBND, 542/QĐ-UBND, 543/QĐ-UBND, 544/QĐ-UBND, 545/QĐ-UBND, 546/QĐ-UBND, và 547/QĐ- UBND để thu hồi đất với tổng diện tích 4616,3m2 thuộc các thửa đất trên để thực hiện dự án đường cao tốc Phan Thiết – Dầu Giây. Cùng ngày UBND huyện C ban hành Quyết định số 779/QĐ-UBND, về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất để thực hiện Dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây thuộc Dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020, đoạn qua địa bàn xã Xuân Bảo, huyện C, tỉnh Đồng Nai; có Bảng chiết tính giá trị bồi thường, hỗ trợ kèm theo Mã số 45, theo đó UBND huyện C áp giá, bồi thường, hỗ trợ diện tích các thửa đất của ông T bị thu hồi nêu trên là vị trí 4.

Qua xem xét thực tế các thửa đất của ông T bị thu hồi gần hết diện tích và chỉ nằm cách mặt tiền đường Mã Vôi - Bưng Cần khoảng từ 90m đến 180m, đây là con đường tiếp giáp giữa xã Xuân Bảo, huyện C với xã Bảo Hòa, huyện Xuân Lộc. Căn cứ Quyết định số 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai ban hành quy định về giá các loại đất tỉnh Đồng Nai 05 năm giai đoạn 2015 - 2019 thì đường Mã Voi - Bưng Cần là đường nhóm 2. Như vậy diện tích đất của ông T bị thu hồi nằm ở vị trí 2, nhưng UBND huyện C xác định vị trí 4 để áp giá bồi thường, hỗ trợ... cho ông T là không khách quan, không đúng quy định pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông T.

Ông T đã làm đơn khiếu nại gửi đến UBND huyện C đề nghị xem xét, giải quyết nâng mức bồi thường, hỗ trợ đảm bảo đúng quy định pháp luật, nhưng không được UBND huyện C xem xét, giải quyết; đến ngày 04/12/2020 UBND huyện C ra Thông báo số 613/TB-UBND, về việc không thụ lý giải quyết khiếu nại của ông T với lý do: Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng.

Nay ông T khởi kiện hành chính yêu cầu Tòa án: Hủy Quyết định số 779/QĐ-UBND, ngày 25/12/2019 của UBND huyện C, về việc Phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện UBND huyện C trình bày:

Căn cứ pháp lý để ban hành Quyết định số 799/QĐ-UBND ngày 25/12/2019 của UBND huyện C về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất để thực hiện Dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020, đoạn qua địa bàn xã Xuân Bảo, huyện C.

- Khoản 2, Điều 74, khoản 3, điểm đ, khoản 4, Điều 114, Luật Đất đai năm 2013 - Khoản 1, Điều 15, Nghị định số 44/2014/NĐ-CP của Chính phủ, quy định về giá đất;

- Khoản 1, Điều 20, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

- Quyết định số 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai, Ban hành quy định về giá các loại đất tỉnh Đồng Nai 05 năm giai đoạn 2015-2019.

- Tại Quyết định số 3960/QĐ-UBND ngày 05/12/2019 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc phê duyệt giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây thuộc dự án đằu tư xây dựng một số đoạn đường bộ Cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, đoạn qua huyện C.

Ngày 25/12/2019, UBND huyện C ban hành Quyết định số 779/QĐ- UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất để thực hiện Dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020, đoạn qua địa bàn xã Xuân Bảo, huyện C. Theo đó, UBND huyện đã thực hiện bồi thường đất nông nghiệp vị trí 4, diện tích 4.616,3 m2 cho ông Đinh Viết T với giá 300.000 đồng/m2 thành tiền 1.384.890.000 đồng; hỗ trợ nhà ở, vật kiến trúc 217.093.240 đồng; hỗ trợ về cây trồng 77.289.250; hỗ trợ khác 297.618.000 đồng. Tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ cho ông Đinh Viết T là 1.976.890.490 đồng, ông Đinh Viết T đã nhận đủ số tiền trên.

Qua rà soát hồ sơ, UBND huyện C xác định việc ban hành Quyết định về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất là đúng quy định pháp luật.

Vì vậy, việc ông Đinh Viết T khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 779/QĐ-UBND ngày 25/12/2019 của UBND huyện C về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất để thực hiện Dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây thuộc dự án xây dựng một số đoạn đường cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020, đoạn qua địa bàn xã Xuân Bảo, huyện C là không có căn cứ, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xem xét bác yêu cầu của người khởi kiện và giữ nguyên Quyết định của UBND huyện C đã ban hành.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Nguyễn Thị L trình bày:

Vợ chồng cụ có cho con là Đinh Viết T một miếng đất để làm ăn. Vì già yếu không đi lại được, xin Tòa giải quyết và xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Đ, chị Đinh Thị Kim X và anh Đinh Viết Đ1 (là vợ và các con của ông T) thống nhất trình bày:

Thống nhất với ý kiến của ông T, yêu cầu Tòa án: Hủy Quyết định số 779/QĐ-UBND, ngày 25/12/2019 của UBND huyện C, về việc Phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất. Do điều kiện ở xa, nên đề nghị Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 71/2022/HC-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Naiquyết định:

Căn cứ Điều 66, Điều 67, Điều 69, Điều 74 và Điều 114 Luật đất đai năm 2013.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí;

Tuyên xử:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Viết T đối với yêu cầu hủy Quyết định số 779/QĐ-UBND ngày 25/12/2019 của UBND huyện C về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất để thực hiện dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây thuộc dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ Cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, đoạn qua địa bàn xã Xuân Bảo, huyện C.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/9/2022, người khởi kiện là ông Đinh Viết T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông Nguyễn Xuân T trình bày: Qua xem xét thực tế, các thửa đất của ông T bị thu hồi gần hết diện tích và chỉ nằm cách mặt tiền đường Mã Vôi - Bưng Cần khoảng từ 90m đến 180m, đây là con đường tiếp giáp giữa xã Xuân Bảo, huyện C với xã Bảo Hòa, huyện Xuân Lộc. Căn cứ Quyết định số 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai ban hành quy định về giá các loại đất tỉnh Đồng Nai 05 năm giai đoạn 2015 - 2019 thì đường Mã Vôi - Bưng Cần là đường nhóm 2. Theo khoản 2 Điều 13 Quyết định số 64/2014/QĐ-UBND thì đất ông T nằm trong khu vực đất giáp ranh địa giới hành chính cấp huyện mà đường phân định ranh giới là đường giao thông. Cùng một con đường nhưng UBND huyện Xuân Lộc xác định là đường nhóm 2 còn UBND huyện C xác định không phải đường nhóm 2 là không phù hợp. Hiện nay, theo quy định mới thì đường Mã Vôi - Bưng Cần được xác định là đường nhóm 2. UBND huyện C xác định vị trí 4 để áp giá bồi thường, hỗ trợ cho ông T là không khách quan, không đúng quy định pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông T.

Ông T bị thu hồi trên 80% đất nông nghiệp nhưng Ủy ban chỉ hỗ trợ ổn định sản xuất cho ông T trong 6 tháng là không đúng. Giá bồi thường, hỗ trợ cho ông T áp dụng theo giá đất năm 2014 là quá thấp, lẽ ra phải áp giá theo Quyết định 10/2019/QĐ-UBND của UBND tỉnh Đồng Nai.

Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Viết T.

Ông Lê Văn B trình bày: Theo 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai thì đường Mã Vôi – Bưng Cần không Tộc địa giới hành chính huyện C nên không có căn cứ để sử dụng đường này làm cơ sở xác định vị trí đất bồi thường trên địa bàn huyện C. Đơn giá đất Ủy ban áp dụng để bồi thường, hỗ trợ đã được xác định thông qua trình tự, thủ tục theo đúng quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa:

- Việc chấp hành pháp luật: Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.

- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Viết T là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tại phiên toa phúc hẩm, ông T kháng cáo nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu của ông nên không có căn cứ chấp nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Đơn kháng cáo, nghĩa vụ đóng tạm ứng án phí, đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[1.2] Về thời hiệu khởi kiện: Tòa án cấp sơ thẩm xác định đơn khởi kiện của ông Đinh Viết T còn trong thời hiệu khởi kiện là đúng quy định của pháp luật.

[1.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, một số đương sự vắng mặt nhưng đã có Văn bản xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những đương sự này.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành Quyết định số 779/QĐ- UBND ngày 25/12/2019: UBND huyện C ban hành Quyết định số 779/QĐ- UBND ngày 25/12/2019 là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tạiĐiều 28 Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Điều 74 và Điều 114 Luật đất đai năm 2013 và Quyết định số 3960/QĐ- UBND ngày 05/12/2019 của UBND tỉnh Đồng Nai.

[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện xác nhận biên bản kiểm đếm đã ghi nhận đầy đủ chủng loại, số lượng công trình kiến trúc, cây trồng trên đất bị thu hồi cũng như không có ý kiến gì về diện tích đất, loại đất bị thu hồi. Riêng về vị trí đất và áp giá bồi thường, hỗ trợ, người khởi kiện cho rằng toàn bộ diện tích đất bị thu hồi nằm ở vị trí 2 (Đường nhóm 2), nhưng UBND huyện C xác định vị trí 4 để áp giá bồi thường, hỗ trợ là không đúng quy định.

Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.2.1] Về vị trí đất bị thu hồi:

Theo hồ sơ địa chính, các thửa đất số: 73, 74, 75, 76, 77, 78, 79 là đất trồng cây hàng năm (LUK), thửa đất số 72 (NTS) là đất nuôi trồng thủy sản, cùng tờ bản đồ số 8, bản đồ địa chính xã Xuân Bảo cách đường chợ Xuân Bảo - Xuân Tây lớn hơn 1.000m và thửa đất số 44b là đất ở và đất trồng cây hàng năm (ONT+NKH) tờ bản đồ số 8, bản đồ địa chính xã Xuân Bảo tiếp giáp mặt tiền đường đất rộng 3,2m; cách đường chợ Xuân Bảo - Xuân Tây lớn hơn 1000m.

Đối chiếu với quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 6 Quy định về giá các loại đất tỉnh Đồng Nai 5 năm giai đoạn 2015 – 2019 ban hành kèm theo Quyết định 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai về việc ban hành quy định về giá các loại đất tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015-2019 thì vị trí đất nông nghiệp tại nông thôn của các thửa đất này không tiếp giáp đường nhóm 1, nhóm 2 (cách đường nhóm 2 trên 1.000m) theo quy định tại phụ lục I kèm theo Quyết định 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai và có đường hẻm nhỏ hơn 5m nên các thửa đất này thuộc vị trí 4 (thửa đấtcách đường chợ Xuân Bảo - Xuân Tây có điểm đầu: Giáp đường Xuân Định - Lâm San, điểm cuối: Giáp đường Xuân Phú – Xuân Tây, đơn vị hành chính cấp huyện: Cẩm Mỹ; số thứ tự 69, đường nhóm 2, Phụ lục I, Quyết định 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai). Căn cứ tiêu chí phân vị trí trên, UBND huyện C đã thực hiện bồi thường cho ông Đinh Viết Tđất nông nghiệp vị trí 4 là đúng theo quy định.

Người khởi kiện kháng cáo cho rằng các thửa đất bị thu hồi chỉ nằm cách mặt tiền đường Mã Vôi - Bưng Cần khoảng từ 90m đến 180m nên phải được bồi thường theo vị trí 2. Tuy nhiên, căn cứ Phụ lục I ban hành kèm theo Quyết định 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Naithì đường Mã Vôi - Bưng Cần có điểm đầu: Quốc lộ 1A, điểm cuối: Giáp huyện C, đơn vị hành chính cấp huyện: Xuân Lộc. Huyện C không có tên đường Mã Vôi - Bưng Cần theo Quyết định 64/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của UBND tỉnh Đồng Nai. Do đó, ý kiến này của người khởi kiện là không có cơ sở chấp nhận.

[2.2.2] Về đơn giá đất tính bồi thường:

Ngày 05/12/2019, UBND tỉnh Đồng Nai ban hành Quyết định số 3960/QĐ- UBND, về việc phê duyệt giá đất để tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây thuộc dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ Cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, đoạn qua huyện C. Trong đó phê duyệt mức giá đất trồng cây lâu năm, cây hàng năm, đất trồng lúa tại xã Xuân Bảo xác định: Vị trí 2 (tiếp giáp đường Xuân Định - Lâm San) là 763.000 đồng/m2, vị trí 3 là 349.000 đồng/m2, vị trí 4 là 300.000 đồng/m2; Đất nuôi trồng thủy sản: Vị trí 3 là 349.000 đồng/m2, vị trí 4 là 300.000 đồng/m2.

Theo Quyết định số 779/QĐ-UBND ngày 25/12/2019 của UBND huyện C, hộ ông T được bồi thường theo đơn giá 300.000 đồng/m2 đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp vị trí 4 bị thu hồi.

Do đó, đơn giá bồi thường được áp dụng đối với hộ ông T là đúng quy định tại khoản 2, Điều 74, Luật Đất đai 2013, khoản 3, khoản 4, Điều 114, Luật Đất đai 2013 và Quyết định số 3960/QĐ-UBND ngày 05/12/2019 của UBND tỉnh Đồng Nai.

[2.2.3] Ngoài ra, theo Quyết định số 779/QĐ-UBND, hộ ông Đinh Viết T còn được UBND huyện C tính toán hỗ trợ 297.518.000đ (bao gồm hỗ trợ ổn định đời sống 8.640.000đ, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp 276.878.000đ, thưởng do chấp hành tốt 12.0000.000đ). Ông Đinh Viết T cũng đã nhận đủ tiền bồi thường, hỗ trợ.

[2.2.3] Như vậy, có cơ sở xác định, quá trình phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất của hộ ông Đinh Viết T để thực hiện Dự án thành phần đầu tư xây dựng đường cao tốc Phan Thiết – Dầu Giây của UBND huyện C là đúng quy định, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T là phù hợp.

[2.3] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá toàn diện các chứng cứ và xét xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Viết T là có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, bác toàn bộ kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.

[3] Án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo là ông Đinh Viết T phải chịu.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

Căn cứ Điều 66, Điều 67, Điều 69, Điều 74 và Điều 114 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí.

1. Bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện là ông Đinh Viết T. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 71/2022/HC-ST ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Viết T đối với yêu cầu hủy Quyết định số 779/QĐ-UBND ngày 25/12/2019 của UBND huyện C về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do thu hồi đất để thực hiện dự án thành phần đầu tư xây dựng đoạn Phan Thiết - Dầu Giây thuộc dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ Cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, đoạn qua địa bàn xã Xuân Bảo, huyện C.

3. Về án phí:

3.1. Án phí hành chính sơ thẩm: Ông T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí do ông Nguyễn Xuân T nộp thay tại biên lai thu số 0002545 ngày 28/01/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai.

3.2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Đinh Viết T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theoBiên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000453 ngày 10 tháng 10 năm 2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện hủy quyết định hành chính số 660/2023/HC-PT

Số hiệu:660/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 08/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về