Bản án về khiếu kiện hành vi không ban hành quyết định thu hồi đất, không ban hành quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường số 435/2021/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 435/2021/HC-PT NGÀY 26/11/2021 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI KHÔNG BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH THU HỒI ĐẤT, KHÔNG BAN HÀNH QUYẾT ĐỊNH PHÊ DUYỆT KINH PHÍ BỒI THƯỜNG

Ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 126/2021/TLPT-HC ngày 04 tháng 02 năm 2021 về việc “Khiếu kiện hành vi không ban hành quyết định thu hồi đất, không ban hành quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 41/2020/HC-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố C bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2567/2021/QĐ-PT ngày 9 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Trần Văn T, sinh năm 1967;

Địa chỉ: số 2/53A Mậu Thân, phường A, quận N, thành phố C (có mặt).

- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân quận N;

Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Huỳnh Trung T, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Số 215 Nguyễn Trãi, phường T, quận N, thành phố C.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Mai Huỳnh K và ông Võ Phước Đ (có đơn xin vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Quỹ Đầu tư Phát triển thành phố C;

Địa chỉ: 24-26 đường L, khu dân cư H, phường H, quận C, thành phố C.

Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Trung N, theo văn bản ủy quyền ngày 26/6/2020 (vắng mặt).

2. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh quận B;

Địa chỉ: Lô L03. 08-09KDC Ngân Thuận, đường L, phường B, quận B, thành phố C.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Vũ N – Phó Giám đốc Chi nhánh, theo văn bản ủy quyền ngày 10/01/2020 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người kháng cáo: Ông Trần Văn T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, phía người người khởi kiện trình bày:

Ngày 10/9/2012 Ủy ban nhân dân quận N ban hành Thông báo số 526/TB-UBND về việc thu hồi đất để đầu tư xây dựng dự án chỉnh trang Khu đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân thuộc Khu đô thị phường A, quận N thành phố C.

Ngày 17/9/2012 ban hành Thông báo số 533/TB-HĐBT về việc đo đạc, kiểm kê đất, nhà, công trình vật kiến trúc.

Ngày 10/12/2013 ban hành Quyết định số 6284/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của ông Tâm.

Ngày 26/9/2017 mới ban hành Thông báo số 65/TB-HĐBT về kiểm tra áp giá tạm tính về đất, nhà, vật kiến trúc, hoa màu, công trình xây dựng, chỉnh trang khu đô thị đường Phạm Ngũ Lão.

Ngày 20/12/2017 lại tiếp tục ra tiếp Thông báo số 957/TB-UBND để thực hiện dự án xây dựng chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão.

Đến năm 2018 lại tiếp tục ban hành Thông báo số 68/TB-HĐBT ngày 11/4/2018 về kết quả áp giá đất, nhà, vật kiến trúc hoa màu.

Việc thu hồi đất, lập dự án chỉnh trang đô thị tính đến nay đã quá lâu những chưa hề thực hiện việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ tái định cư mà chỉ tống đạt nhiều thông báo, áp giá khác nhau. Việc bồi thường chậm đã làm cho gia đình ông gặp nhiều khó khăn khi sửa chữa, nâng cấp, cải tạo nhà ở có nguy cơ bị xuống cấp không ở được nữa, gây thiệt hại nghiêm trọng cho gia đình ông. Bởi vì, phần đất ông Tâm hiện đang thế chấp ngân hàng vay vốn. Do có thông báo thu hồi đất nên không thể chuyển nhượng để trả nợ ngân hàng được.

Do đó, ông Tâm khởi kiện yêu cầu buộc Ủy ban nhân dân quận N phải ban hành Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường đất đã thu hồi, chi trả đầy đủ tổng số tiền bồi thường trên thực tế.

Ngày 13/7/2020, ông Tâm khởi kiện bổ sung yêu cầu Ủy ban nhân dân quận N phải ban hành Quyết định thu hồi đất của ông theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 67 Luật đất đai năm 2013.

Người bị kiện là Ủy ban nhân dân quận N có văn bản trình bày ý kiến:

Hộ ông Trần Văn T có thông báo thu hồi đất từ tháng 12 năm 2017 nhưng đến nay Ủy ban nhân dân quận N chưa ban hành quyết định thu hồi đất, nguyên nhân do Quỹ Đầu tư Phát triển thành phố C là Chủ đầu tư xây dựng dự án Chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân chưa có vốn để chuyển vào tài khoản của Ban Quản lý dự án và Phát triển quỹ đất quận N, làm cơ sở chi trả cho ông Trần Văn T theo quy định. Việc kéo dài thời gian quyết định thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ làm ảnh hưởng đời sống của người dân. Tuy nhiên, ông Tâm sẽ được bồi thường, hỗ trợ theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi tại thời điểm có quyết định thu hồi đất, có giá cao hơn thời điểm ban hành thông báo thu hồi đất.

Từ cơ sở trên, Ủy ban nhân dân quận N nhận thấy việc Ủy ban nhân dân quận N chưa ban hành quyết định thu hồi đất theo quy định khoản 1 Điều 67 của Luật Đất đai vì Chủ đầu tư chưa chuyển kinh phí đảm bảo chi trả cho người dân theo quy định Điều 93 của Luật Đất đai; pháp luật đất đai hiện hành không quy định thời gian tối đa để Ủy ban nhân dân quận N ban hành quyết định thu hồi đất, kể từ ngày thông báo thu hồi đất mà quy định người sử dụng đất được bồi thường theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (UBND thành phố C) quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.

Trong thời gian tới, Ủy ban nhân dân quận N sẽ chỉ đạo Hội đồng bồi thường dự án rà soát, tham mưu Ủy ban nhân dân quận báo cáo Ủy ban nhân dân thành phố C xem xét, có ý kiến đến Quỹ đầu tư phát triển thành phố sớm thực hiện dự án đúng theo chủ trương của Ủy ban nhân dân thành phố để đảm bảo quyền lợi của người dân.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Quỹ đầu tư và Phát triển thành phố C có văn bản trình bày ý kiến:

Quỹ Đầu tư phát triển đã bố trí vốn đầy đủ để bồi thường cho dự án Chỉnh trang Khu đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân.

Thời gian và tiến độ dự kiến: Năm 2020 (Theo Quyết định số 1108/QĐ- UBND ngày 10/5/2019).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh quận B có văn bản trình bày ý kiến:

Ông Trần Văn T có vay vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh quận B thành phố C theo hợp đồng tín dụng số 9890710 ngày 22/7/2020 được thế chấp hợp đồng số 989HDDTC08 ngày 22/7/2010 số tiền vay là 2.000.000 đồng đến nay đã quá hạn từ ngày 21/7/2011 và chưa thanh toán nợ cho Ngân hàng.

Ông Trần Văn T đã vi phạm các cam kết trong Hợp đồng tín dụng không trả nợ gốc và lãi theo đúng cam kết trong hợp đồng dẫn đến nợ quá hạn. Ngân hàng đã gửi hồ sơ khởi kiện ở Tòa án nhân dân quận N ngày 15/5/2017 để xét xử và thu hồi nợ.

Do tài sản đang thế chấp nằm trong quy hoạch thuộc dự án Chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân nên không chuyển nhượng sang bán được để Ngân hàng thu hồi nợ. Việc ban hành quyết định thu hồi và bồi thường đất của Ủy ban nhân dân quận N chậm đã gây thiệt hại cho khách hàng cũng như ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng làm cho số nợ lãi phát sinh ngày càng tăng cụ thể đến ngày 21/8/2020 tổng số tiền gốc và lãi khách hàng phải trả là: 4.674.250.000 đồng (trong đó số tiền gốc là 2.000.000.000 đồng; số tiền lãi là 2.774.250.000 đồng).

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 41/2020/HC-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố C, quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32, Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 của Luật tố tụng hành chính năm 2015; Điều 49, khoản 1 Điều 67 của Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T người khởi kiện về việc yêu cầu buộc Ủy ban nhân dân quận N phải ban hành Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường đất đối với nhà và đất của ông tại địa chỉ 2/53A đường Mậu Thân, phường A, quận N, thành phố C.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 27/11/2020, người khởi kiện ông Trần Văn T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Trần Văn T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu:

Về tố tụng: kể từ thời điểm thụ lý giải quyết vụ án đến nay, Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Về nội dung: Theo khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai năm 2013, trước khi có quyết định thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất để cho người có đất thu hồi biết. Như vậy, điều khoản luật quy định thời hạn tối thiểu để ban hành thông báo thu hồi đất khi có quyết định thu hồi. Điều luật không quy định thời hạn tối đa phải ban hành quyết định thu hồi đất khi đã thông báo thu hồi đất. Chính vì vậy, ông Tâm cho rằng, khi đã có thông báo thu hồi đất thì sau thời hạn được quy định tại khoản 1 Điều 67 Luật Đất đai năm 2013, Ủy ban phải ra quyết định thu hồi đất là không đúng với tinh thần quy định của điều luật.

Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 49 của Luật Đất đai 2013, thì trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế quyền theo quy định tại khoản 2 Điều này. Hồ sơ thể hiện ngày 25/10/2012, UBND thành phố C ban hành Quyết định số 2660/QĐ-UBND về việc quy hoạch chi tiết xây dựng Chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân. Ngày 31/5/2015, UBND thành phố C ban hành Quyết định số 976/QĐ-UBND về việc phê duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng theo tỷ lệ 1/500 chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân. Ngày 09/5/2017, UBND thành phố C ban hành quyết định số 1240/QĐ-UBND về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2017 của quận N. Đối chiếu với quy định tại Điều 49 Luật Đất đai 2013 thì đến nay, ông Tâm không bị hạn chế quyền sử dụng đất của mình.

Do đó, việc ông cho rằng dự án kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng quyền lợi của ông là không có cơ sở. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa người bị kiện được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 225 của Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định.

[2] Về xác định đối tượng, thẩm quyền và thời hiệu khởi kiện.

Cho rằng, Ủy ban nhân dân quận N đã ban hành Thông báo thu hồi đất nhưng quá hạn mà không ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định bồi thường về đất, ông Trần Văn T đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc người bị kiện phải ban hành các quyết định trên theo quy định pháp luật. Đây được coi là hành vi hành chính mà người khởi kiện cho rằng UBND quận N không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Do đó căn cứ khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Tòa án nhân dân thành phố C thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

[3] Về nội dung và yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Dự án Chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân đã được quy hoạch từ năm 2012. Thực hiện dự án, nhiều lần phía Ủy ban nhân dân quận N đã có nhiều quyết định và thông báo thu hồi đất nhưng vẫn không có quyết định thu hồi đất và thực hiện chi trả, bồi thường cho gia đình ông Tâm gây bức xúc cho người khởi kiện. Tuy nhiên, việc UBND quận N, thành phố C chưa ra Quyết định thu hồi đất được coi là lý do khách quan, nguyên nhân đó là do Quỹ đầu tư và phát triển đất thành phố C là chủ đầu tư xây dựng dự án Chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân chưa có vốn để chuyển váo tài khoản của Ban quản lý dự án và phát triển quỹ đất quận N. Đồng thời tại Văn bản số 4477/UBND-BTCD ngày 02/11/2020 của Ủy ban nhân dân quận N về việc ý kiến bổ sung đối với yêu cầu khởi kiện của ông Tâm, người bị kiện có nêu rằng trong thời gian tới Ủy ban nhân dân quận N sẽ chỉ đạo rà soát dự án này để sớm thực hiện dự án.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 49 của Luật đất đai năm 2013 thì trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định tại khoản 2 Điều này. Hồ sơ thể hiện, ngày 25/10/2012, Ủy ban nhân dân thành phố C ban hành Quyết định số 2660/QĐ-UBND về việc quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân. Ngày 31/5/2015, UBND thành phố C ban hành Quyết định số 976/QĐ-UBND về việc phê duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 chỉnh trang đô thị đường Phạm Ngũ Lão nối dài đến đường Mậu Thân. Ngày 09/5/2017, Ủy ban nhân dân thành phố C ban hành Quyết định số 1240/QĐ-UBND về việc phê duyệt kế hoạch sử dụng đất năm 2017 của quận N. Đối chiếu với quy định tại Điều 49 Luật đất đai năm 2013 thì ông Trần Văn T không bị hạn chế về quyền sử dụng đất của mình.

Do đó, yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên Hội đồng xét xử tiếp tục duy trì kiến nghị của Tòa án nhân dân thành phố C, đề nghị UBND thành phố C chỉ đạo UBND quận N có biện pháp nhằm sớm triển khai thực hiện dự án, đảm bảo quyền của người khởi kiện cũng như các hộ dân bị ảnh hưởng của dự án nêu trên.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn T phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện không được chấp nhận nên ông Trần Văn T phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính.

1. Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Trần Văn T.

Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 41/2020/HC-ST ngày 17 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố C.

Tuyên xử:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32, Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 49, khoản 1 Điều 67 của Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T người khởi kiện về việc yêu cầu buộc Ủy ban nhân dân quận N phải ban hành Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường đất đối với nhà và đất của ông tại địa chỉ 2/53A đường Mậu Thân, phường A, quận N, thành phố C.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trần Văn T phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tiền số 000136 ngày 27 tháng 11 năm 2020 của Cục Thi hành án dân sự thành phố C.

4. Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

405
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện hành vi không ban hành quyết định thu hồi đất, không ban hành quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường số 435/2021/HC-PT

Số hiệu:435/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 26/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về