TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 96/2023/HC-PT NGÀY 31/03/2023 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH VIỆC KHÔNG THỰC HIỆN BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ HÀNH CHÍNH
Ngày 31-3-2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh K. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 288/2022/TLPT-HC ngày 07-11-2022 về “Khiếu kiện hành vi hành chính về việc không thực hiện biện pháp cưỡng chế hành chính”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2022/HC-ST ngày 25-7-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh K bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 767/2023/QĐ-PT ngày 24-02-2023, giữa các đương sự:
Người khởi kiện:
1. Ông Vũ Thế V, sinh năm 1973; địa chỉ cư trú: STH 46 Lô 50, Đường 5D, Khu đô thị mới L II, phường P, thành phố N, tỉnh K, vắng mặt.
2. Bà Nguyễn Kim Q, sinh năm 1977; địa chỉ cư trú: STH 46 Lô 50, Đường 5D, Khu đô thị mới L II, phường P, thành phố N, tỉnh K, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện (Hợp đồng ủy quyền số ngày 29-3-2023):
Bà Hà Huyền N, sinh năm 1996; địa chỉ cư trú: thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, có mặt tại phiên tòa.
Người bị kiện: Chánh Thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện:
Ông Nguyễn Võ S - Chức vụ: Phó Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phan Bá B; địa chỉ cư trú: STH Lô 08, Đường 14, Khu đô thị mới L II, phường P, thành phố N, tỉnh K, có mặt tại phiên toà.
2. Bà Hoàng Thị T; địa chỉ cư trú: STH Lô 08, Đường 14, Khu đô thị mới L II, phường P, thành phố N, tỉnh K, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Hoàng Thị T (Hợp đồng ủy quyền số 5663/HĐUQ ngày 18-7-2022):
Ông Phan Bá H; địa chỉ cư trú: STH Lô 08, Đường 14, Khu đô thị mới L II, phường P, thành phố N, tỉnh K, có mặt tại phiên toà.
3. Công ty Cổ phần Bất động sản H, địa chỉ công ty: SVL 05.09, Đường số 7, Khu đô thị mới L II, phường P, thành phố N, tỉnh K.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà Văn H - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm Tổng Giám đốc công ty.
Người đại diện theo ủy quyền (Giấy uỷ quyền số 02/GUQ-TGĐ ngày 01-3-2022):
Ông Bùi Thanh Đ - Chức vụ: Trưởng phòng Phòng Quy hoạch - Thiết kế và Quản lý xây dựng, có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người khởi kiện trình bày:
Ông, bà (Vũ Thế V, bà Nguyễn Kim Q) là chủ sở hữu nhà đất tại STH 46 Lô 50, Đường 5D, Khu đô thị mới L II, phường P, thành phố N, tỉnh K (sau đây viết tắt là nhà đất số 50). Nhà đất số 50 có tứ cận: Phía Đông giáp lô đất trống, Khu đô thị L II; phía Tây giáp Lô STH 46 Lô 09 và STH 46 Lô 10, Khu đô thị mới L II; phía Nam giáp mặt tiền Đường số 5D, Khu đô thị mới L II; phía Bắc giáp lô đất trống, Khu đô thị mới L II.
Mặt trước nhà đất số 50 của gia đình ông, bà tiếp giáp với mặt phía sau căn nhà số STH 46 Lô 08, Đường 14, Khu đô thị mới L II của hộ ông Phan Bá B và bà Hoàng Thị T (sau đây viết tắt là hộ ông B và nhà đất số 08), nhà đất số 08 được xây dựng có 03 tầng, gồm 01 tầng trệt và 02 tầng lầu. Tại các tầng 02, tầng 03 hộ ông B thiết kế, xây dựng ban công ở mặt trước và mặt sau, trong đó phần ban công ở mặt sau của nhà đất số 08 được hộ ông B xây ở các tầng 2, tầng 3 vươn ra khoảng 1,2 m vượt qua chỉ giới đỏ của Đường số 5 (Khu đô thị L II đã được Ủy ban nhân dân tỉnh K phê duyệt tại Quyết định số 1084/QĐ-UBND ngày 27-4- 2016). Đặc biệt nghiêm trọng là phần ban công của hộ ông B xây dính liền mặt trước và chiếm mất khoảng một phần ba (1/3) không gian trước mặt nhà đất số 50 của gia đình ông, bà. Việc hộ ông B xây dựng thêm các ban công mặt sau ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống sinh hoạt và nảy sinh nhiều bất tiện khác cho gia đình ông bà, vì nếu đứng trên các ban công của hộ ông B có thể nhìn thấy được toàn bộ sinh hoạt bên trong nhà đất số 50 hoặc thông qua các ban công này người ngoài dễ dàng xâm nhập vào nhà đất số 50 của gia đình ông, bà.
Hành vi xây dựng trái luật của hộ ông Phan Bá B tại nhà đất số 08 thể hiện rõ khi đối chiếu với các quy định pháp luật như sau: Điều 174 của Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng bất động sản liền kề quy định: “Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là bất động sản liền kề và xung quanh”; Điều 7 Quy chuẩn xây dựng Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 682/BXD-CSXD ngày 14-12-1996 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng quy định: “Mép ngoài cùng của ban công trông sang nhà hàng xóm phải cách ranh giới đất giữa hai nhà ít nhất là 2 m”.
Khi hành vi xây dựng vi phạm pháp luật xảy ra, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình, ông bà đã nhiều lần thiện chí thương lượng hòa giải với Công ty Cổ phần Bất động sản H và hộ ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T để giải quyết tranh chấp, nhưng đều không có kết quả. Do đó, ông bà đã khiếu nại hành vi vi phạm nêu trên đến Sở Xây dựng tỉnh K. Ngày 31-5-2018, Sở Xây dựng đã lập Đoàn thanh tra đến nhà đất số 08, nhà đất số 50 để xác minh, kiểm tra và lập “Biên bản vi phạm hành chính về Hoạt động kinh doanh bất động sản số 23/BB- VPHC”. Ngày 07-6-2018, Chánh thanh tra Sở Xây dựng ban hành Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính (sau đây viết tắt là Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC), nội dung quyết định nêu rõ vi phạm, quy định biện pháp xử phạt chính bằng tiền đối với Công ty Bất động sản H và áp dụng biện pháp xử phạt bổ sung là buộc Công ty Bất động sản H và chủ đầu tư thứ cấp là ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T phải thực hiện đúng quy định chi tiết xây dựng đã được phê duyệt.
Tuy nhiên, sau khi có Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC, bên bị xử phạt chỉ mới chấp hành được một phần quyết định là nộp phạt khoản tiền 55.000.000 đồng, chứ không thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả giỡ bỏ phần công trình xây dựng vi phạm như Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC đã phán quyết. Do đó, căn cứ Điều 73, Điều 74 và Điều 86 của Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 166/2013/NĐ-CP của Chính phủ, ông bà tiếp tục gửi đơn yêu cầu Sở Xây dựng tỉnh K thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nhưng đến nay Sở Xây dựng vẫn chưa thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Ngày 15-01-2019, Sở Xây dựng ban hành Công văn số 248/SXD-TTr về việc trả lời ông, bà với lý do Sở Xây dựng không tiến hành thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là “Do một số bất cập trong công tác ban hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nên hiện nay Sở Xây dựng đang rà soát các thủ tục, lấy ý kiến các ngành liên quan. Về thủ tục khởi kiện, đề nghị ông liên hệ Tòa án để được hướng dẫn theo quy định”. Việc Sở Xây dựng tỉnh K thoái thác, không thực hiện triệt để Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC khiến cho việc tranh chấp giữa ông, bà với Công ty Bất động sản H và hộ ông B không được giải quyết, hành vi vi phạm vẫn tồn tại, quyền lợi ích hợp pháp của ông, bà vẫn bị xâm phạm.
Vì vậy, ông bà khởi kiện, đề nghị Tòa án buộc Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K phải ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC ngày 07-6-2018.
Người bị kiện trình bày:
Ý kiến đối với hành vi hành chính bị kiện đã được trình bày tại Văn bản số 3372/SXD-TTra ngày 08-10-2020 của Sở Xây dựng tỉnh K như sau:
“Ngày 07-6-2018, Chánh thanh tra Sở Xây dựng có ban hành Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC, xử phạt vi phạm hành chính đối với Công ty Cổ phần Bất động sản H. Tuy nhiên, do một số bất cập của pháp luật về việc quy định thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nên đến nay Thanh tra Sở Xây dựng K đang đề xuất, lấy ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền. Ngày 03-3-2020, UỶ ban nhân dân tỉnh K có Văn bản số 1884/UBND-XDNĐ về việc vướng mắc khi áp dụng Nghị định số 139/2017/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó có nội dung đề nghị Bộ Xây dựng hướng dẫn vướng mắc về thẩm quyền của Chánh thanh tra Sở ban hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép). Tuy nhiên, theo nội dung hướng dẫn của Bộ Xây dựng tại khoản 2 mục II của Văn bản số 1806/BXD-TTr ngày 17-4-2020, Sở Xây dựng tỉnh K nhận thấy nội dung hướng dẫn chưa rõ và chưa đảm bảo tính chặt chẽ để tổ chức thực hiện. Ngày 08-9-2020, Sở Xây dựng tỉnh K tiếp tục có Văn bản số 2869/SXD-TTra gửi Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh K về việc góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, Sở Xây dựng tỉnh K có đề xuất Quốc hội xem xét quy định chi tiết về trình tự và thẩm quyền của Chánh thanh tra Sở về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 1 Điều 28 của Luật Xử lý vi phạm hành chính”. Thanh tra Sở Xây dựng thống nhất ý kiến tại văn bản này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Công ty Cổ phần Bất động sản H trình bày:
Ngày 18-01-2016, ông Vũ Thế V và bà Nguyễn Kim Q ký Hợp đồng mua bán nhà số II-STH46A.50-HĐMB-18012016 về việc mua bán căn nhà trên Lô đất STH46A.50 thuộc Dự án Khu đô thị mới L II, thành phố N do Công ty Cổ phần Bất động sản H (sau đây viết tắt là HQL) làm chủ đầu tư. Ngày 08-8-2016, ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T ký Hợp đồng mua bán nhà số II-STH46A.08-HĐMB- 08082016 về việc mua bán căn nhà trên Lô đất STH46A.08 thuộc Dự án Khu đô thị mới L thành phố N do HQL làm chủ đầu tư.
Ngày 20-9-2016, ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T ký Hợp đồng thi công xây dựng nhà số II-STH46A.08-HĐTC với HQL và nhà thầu thi công là Công ty TNHH Tư vấn xây dựng Toàn Đạt K về việc xây dựng phần thô căn nhà trên Lô đất số STH46A.08 theo Hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công được HQL phê duyệt ngày 20-9-2016. Ngày 23-3-2017, ông Vũ Thế V, bà Nguyễn Kim Q ký Phụ lục Hợp đồng xây thô kèm theo Hợp đồng II-HĐMB-18012016 với HQL và nhà thầu thi công là Công ty Cổ phần Tư vấn và Kiểm định xây dựng Việt Nam về việc xây dựng phần thô căn nhà trên Lô đất STH46A.50 theo Hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công được HQL phê duyệt ngày 09-3-2017. Ngày 24-7-2017, ông Vũ Thế V có đơn thư gửi đến HQL với nội dung đề nghị HQL giải quyết việc căn nhà xây dựng trên Lô đất STH46A.08 có sự sai lệch so với quy định do không để diện tích lưu không phía sau nhà, làm ảnh hưởng đến cảnh quan khu đô thị và làm che khuất tầm nhìn từ căn nhà STH46A.50 của ông V. Ngày 08-8-2017, Sở Xây dựng đã làm việc với HQL và kiểm tra thực tế công trình xây dựng tại Lô đất STH46A.08. Ngày 18-8-2017, Sở Xây dựng có Văn bản số 3086/SXD-TTra gửi HQL với nội dung: “Yêu cầu HQL tháo dỡ toàn bộ bộ phận công trình xây dựng sai so với thiết kế đô thị đã được phê duyệt đối với công trình nêu trên trước ngày 15-9-2017. Kết quả thực hiện, đề nghị đơn vị có văn bản báo cáo gửi về Sở Xây dựng để theo dõi. Trường hợp HQL không thực hiện, Sở Xây dựng sẽ tiến hành xử lý công trình vi phạm theo quy định”. Ngày 05-9-2017, HQL đã gửi Văn bản số 225/CV-BQL đến hộ ông Phan Bá B với nội dung đề nghị ông B hợp tác cùng HQL thực hiện Văn bản số 3086/SXD-TTra của Sở Xây dựng, tiến hành tháo dỡ toàn bộ bộ phận công trình xây dựng sai phạm trước ngày 15-9-2017. Ngày 02-10-2017, HQL đã có Báo cáo số 30/BC-BQL gửi Sở Xây dựng với nội dung: HQL đã nhiều lần trực tiếp gặp gỡ và làm việc với gia đình ông Phan Bá B, nhưng gia đình ông B từ chối hợp tác thực hiện công tác tháo dỡ những sai phạm nói trên. HQL báo cáo để Thanh tra Sở Xây dựng được rõ và tạo điều kiện hỗ trợ tiến hành tháo dỡ toàn bộ bộ phận công trình xây dựng sai so với thiết kế đô thị đã được duyệt. Ngày 22-11-2017, HQL có biên bản làm việc với ông Phan Bá B và đã đề xuất phương án xử lý như sau:
Phương án 1: Nhà thầu cùng khách hàng tổ chức tháo dỡ phần sai phạm, toàn bộ chi phí tháo dỡ HQL chịu, đồng thời HQL hỗ trợ thêm một khoản tiền cho hộ ông Phan Bá B.
Phương án 2: HQL đồng ý mua lại căn nhà STH46A.08 của ông Phan Bá B và HQL tạo điều kiện cho ông Phan Bá B mua lại một lô đất khác trong dự án. Đồng thời, HQL chi trả toàn bộ chi phí tiền thuê nhà cho ông Phan Bá B trong thời gian thi công xây dựng căn nhà trên lô đất mới. Tuy nhiên, ông Phan Bá B không đồng ý với các phương án của HQL và từ chối ký xác nhận biên bản làm việc.
Ngày 03-01-2018, ông Phan Bá B gửi đơn đề nghị HQL thực hiện thủ tục hoàn công quyết toán đối với căn nhà STH46A.08. Ngày 25-01-2018, HQL đã gửi Văn bản số 33/CV-BQL đến ông Phan Bá Bông với những nội dung như sau: “Đề nghị ông Phan Bá B hợp tác cùng HQL thực hiện tháo dỡ các hạng mục sai phạm so với thiết kế đô thị đã được phê duyệt của căn nhà STH46A.08. HQL từ chối nghiệm thu, xác nhận hồ sơ quản lý chất lượng, quyết toán tại căn nhà STH46A.08 khi chưa tháo dỡ hạng mục sai phạm”. Ngày 22-01-2018, Sở Xây dựng gửi Văn bản số 266/SXD-TTra đến HQL, với nội dung: “Đề nghị HQL tiến hành làm việc và yêu cầu hộ ông Phan Bá B thực hiện tháo dỡ phần ban công mặt sau của căn nhà STH46A.08, Đường số 14 (vị trí tiếp giáp và che khuất tầm nhìn từ nhà STH46A.50 của ông V). Thời gian thực hiện: trong vòng 60 ngày làm việc kể từ ngày 22-01- 2018, nếu hộ ông Phan Bá B không chấp hành tháo dỡ, Thanh tra Sở Xây dựng xử lý vi phạm hành chính theo quy định”. Ngày 06-02-2018, HQL gửi Văn bản số 35/CV- BQLDA đến ông Phan Bá B yêu cầu ông B thực hiện tháo dỡ các hạng mục sai phạm theo nội dung Văn bản số 266/SXD-TTra ngày 22-01-2018 của Sở Xây dựng. Ngày 07-6-2018, Thanh tra Sở Xây dựng ban hành Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC về việc xử phạt phạm vi phạm hành chính đối với HQL và hộ ông Phan Bá B. Ngày 03-7-2018, HQL đã thực hiện nghĩa vụ nộp phạt theo Quyết định số 270/QĐ- XPVPHC của Thanh tra Sở Xây dựng.
Trong quyền hạn và trách nhiệm của chủ đầu tư, HQL đã rất nỗ lực trong việc giải quyết sai phạm bằng cách đưa ra những phương án thiện chí, hợp tình hợp lý đối với khách hàng, đã có báo cáo chi tiết sự việc với Thanh tra Sở Xây dựng, đồng thời đã thực hiện nộp tiền phạt. Tuy nhiên, đến nay ông Phan Bá B vẫn không thực hiện việc tháo dỡ các hạng mục sai phạm theo yêu cầu từ cơ quan chức năng. Đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Ông Phan Bá H là người đại diện theo ủy quyền của ông Phan Bá B trình bày:
Không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Thế V, bà Nguyễn Kim Q, đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2022/HC-ST ngày 25-7-2022, Tòa án nhân dân tỉnh K:
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 86, điểm i khoản 1 Điều 87 của Luật Xử lý vi phạm hành chính; Điều 6 và Điều 7 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12-11-2013 của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là ông Vũ Thế V và bà Nguyễn Kim Q.
Buộc Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành biện pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định 270/QĐ-XPVPHC ngày 07-6-2018 của Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
- Ngày 31-7-2022, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T kháng cáo bản án.
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các tài liệu chứng cứ, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T kháng cáo bản án; đơn kháng cáo của đương sự là trong thời hạn quy định tại Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính, do đó Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Tại phiên tòa, người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện; người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện đề nghị bác kháng cáo. Như vậy, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính:
- Bác kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T; giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm.
[2]. Xét kháng cáo của đương sự:
[2.1]. Về tố tụng:
Ngày 07-6-2018, Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 270/QĐ-XPVPHC đối với Công ty Cổ phần Bất động sản H “Để chủ đầu tư thứ cấp ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T thực hiện đầu tư xây dựng công trình tại lô đất STH46A Lô 08 Đường 14, Khu đô thị mới L II, phường P, thành phố N không phù hợp quy hoạch chi tiết xây dựng được phê duyệt”; phạt 55.000.000 đồng và buộc chủ đầu tư thứ cấp là ông Phan Bá B và bà Hoàng Thị T thực hiện đầu tư xây dựng đúng quy hoạch đã được phê duyệt. Tuy nhiên, thời hạn tự nguyện chấp hành đã hết, nhưng ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T không thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả như quyết định xử phạt đã nêu. Do đó, ông Vũ Thế V, bà Nguyễn Kim Quên khởi kiện hành vi hành chính của Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh Khánh Hoà về việc không ban hành quyết định cưỡng chế khắc phục hậu quả.
Tại Công văn số 248/SXD-Ttra ngày 15-01-2019, Thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K trả lời khiếu nại của ông Vũ Thế V, nêu lý do không tiến hành thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Ngày 22-11-2019, ông Vũ Thế V và bà Nguyễn Kim Q khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K phải ban hành quyết định cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 270/QĐ-XPVPHC ngày 07-6- 2018 đối với Công ty Cổ phần Bất động sản H. Tòa án nhân dân tỉnh K xác định yêu cầu khởi kiện còn trong thời hiệu, nên thụ lý và xác định quan hệ pháp luật giải quyết trong vụ án “Khiếu kiện hành vi hành chính về việc không thực hiện biện pháp cưỡng chế hành chính” là đúng quy định tại khoản 3 Điều 3, khoản 1 Điều 30, khoản 3 Điều 32 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
[2.2]. Về nội dung:
Công trình xây dựng tại STH46A Lô 08, Đường 14, Khu đô thị L II, phường P, thành phố N thuộc sở hữu của ông Phan Bá B và bà Hoàng Thị T, có mặt sau công trình tiếp giáp với chỉ giới đường đỏ Đường số 5D, ban công mặt sau công trình các tầng 2, tầng 3 vươn ra 1,2 m, làm che khuất một phần tầm nhìn của căn nhà STH46A Lô 50 Đường 5D. Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần Bất động sản H để chủ đầu tư thứ cấp (ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T) thực hiện đầu tư xây dựng công trình không phù hợp với quy hoạch chi tiết xây dựng được phê duyệt (thiết kế đô thị đã được UBND tỉnh K phê duyệt tại Quyết định số 1084/QĐ-UBND ngày 27-4-2016) là vi phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 13 Nghị định số 139/2017/NĐ-CP ngày 27-11-2017 của Chính phủ. Như vậy, Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 270/QĐ-XPVPHC ngày 07-6-2018 đối với Công ty Cổ phần Bất động sản H là có căn cứ, đúng pháp luật.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên có hiệu lực thi hành, tại Điều 3 quyết định nêu: “Công ty Cổ phần Bất động sản H và hộ ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử phạt này trong thời hạn mười (10) ngày. Nếu quá thời hạn mà Công ty Cổ phần Bất động sản H và hộ ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T không tự nguyện chấp hành thì sẽ bị cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật”. Tuy nhiên, đến nay việc tháo dỡ phần ban công mặt sau của công trình STH46A Lô 08, Đường số 14 vẫn chưa được Công ty Cổ phần Bất đọng sản H, ông Phan Bá B và bà Hoàng Thị T thực hiện.
Tại khoản 1 Điều 86 của Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt được áp dụng trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt theo quy định tại Điều 73 của Luật này” và tại điểm i khoản 1 Điều 87 của Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: “Chánh thanh tra Sở Xây dựng có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả tháo dỡ đối với phần công trình xây dựng vi phạm”.
Đến nay, đã quá thời hạn thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Công ty Cổ phần Bất động sản H và hộ ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T không tự nguyện chấp hành việc tháo dỡ phần công trình vi phạm, nhưng Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K không ban hành quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với phần công trình xây dựng vi phạm là không thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Từ các nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Thế V, bà Nguyễn Kim Q là có căn cứ.
Như vậy, kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, nhưng không có cơ sở để chấp nhận.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[4]. Về án phí:
Do kháng cáo không được chấp nhận, nên người kháng cáo phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính.
- Bác kháng cáo của của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Bá B và bà Hoàng Thị T.
- Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2022/HC-ST ngày 25-7-2022 của Toà án nhân dân tỉnh K.
2. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính, xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là ông Vũ Thế V và bà Nguyễn Kim Q.
Buộc Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành biện pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định số 270/QĐ-XPVPHC ngày 07-6-2018 của Chánh thanh tra Sở Xây dựng tỉnh K.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính; khoản 2 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0009965 ngày 19-8-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa; ông Phan Bá B, bà Hoàng Thị T đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính việc không thực hiện biện pháp cưỡng chế hành chính số 96/2023/HC-PT
Số hiệu: | 96/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 31/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về