Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và yêu cầu bồi thường thiệt hại số 288/2021/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 288/2021/HC-PT NGÀY 22/12/2021 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

Vào ngày 22 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 290/2021/TLPT-HC ngày 11 tháng 10 năm 2021 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2021/HC-ST ngày 17 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên bị kháng cáo.

Giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Xuân B, sinh năm 1991. Địa chỉ: Số 120, đường N1, Phường Y, thành phố T4, tỉnh Phú Yên, vắng mặt

Người đại diện theo ủy quyền:

1. Bà Đinh Thị L, sinh năm 1963. Địa chỉ: Khu phố U, phường H3, thị xã Đ2, tỉnh Phú Yên, có mặt

2. Ông Bùi Trọng T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Số 247, đường N, Phường 5, thành phố T4, tỉnh Phú Yên, có mặt

- Người bị kiện: Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị D – Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1, tỉnh Phú Yên, có mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1, tỉnh Phú Yên. Người đại diện Bà Nguyễn Thị D – Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1, tỉnh Phú Yên, có mặt

2. Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Phú Yên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Hoàng S, vắng mặt

3. Bà Nguyễn Thị Thanh V, sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn Hội Cư, xã H1, huyện T1, tỉnh Phú Yên.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Đ1, có mặt

4. Ông Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1974 và bà Ngô Thị S1, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn X1, xã H1, huyện T1, tỉnh Phú Yên, vắng mặt Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Nguyễn Xuân B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được xác định như sau:

- Tại đơn khởi kiện, các lời khai có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa ông Nguyễn Xuân B, bà Đinh Thị L và ông Bùi Trọng T trình bày: Ngày 31/10/2019 ông B nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng ông D, bà S1 thửa đất số 755, tờ bản đồ số 14-D, tại địa chỉ: Thôn X1, xã H1, huyện T1, tỉnh Phú Yên; diện tích 392m2; đã được ủy ban nhân dân huyện T1 cấp giấy chứng nhận (Ịuyền sử dụng đất số BB 653888 ngày 30/12/2013 đứng tên ông D, bà S1. Hợp đồng chuyển nhượng đã được Văn phòng công chứng Phú Yên công chứng ngày 31/10/2019, đã thanh toán xong 1,4 tỷ đồng, còn lại 670 triệu đồng chưa thanh toán và chưa nhận bàn giao nhà, đất.

Ngày 11/11/2019 ông B nộp hồ sơ đăng ký biến động đất đai theo hợp đồng chuyển nhượng nêu trên tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Chi nhánh Văn phòng đãng ký đất đai huyện T1 nhưng bị từ chối.

Do đó, ông B khởi kiện yêu cầu Tòa buộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai theo hợp đòng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên. Tại đơn khởi kiện bổ sung ngày 16/6/2021 và tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện bổ sung yêu câu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật, do hành vi từ chối tiếp nhận hồ sơ đăng ký biến động gây ra.

- Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên, Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1 trình bày: Ngày 08/11/2019 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1 nhận Văn bản số 147/TA ngày 08/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện T1 về việc không thực hiện thủ tục chỉnh lý, đăng ký biến động đất đai, sang tên chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất của vợ chồng ông D, bà S1 tại thửa đất số 755, tờ bản đồ số 14-D.

Ngày 11/11/2019 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1 từ chối tiếp nhận hồ sơ đăng ký biến động đất đai của ông B. Ngày 27/02/2020 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1 tiếp nhận Văn bản số 44/THADS ngày 27/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1 yêu cầu Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1 không giải quyết các yêu cầu về sang tên, chuyển nhượng, tặng cho, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh dưới bất kỳ hình thức nào liên quan đến nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng ông D, bà S1 tại thửa đất số 755, tờ bản đồ số 14-D. Vì vậy, không có cơ sở để giải quyết hồ sơ đăng ký biến động đất đai theo yêu cầu của ông Nguyễn Xuân B.

- Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T1 trình bày: Ngày 04/02/2020 bà V có đơn yêu cầu thi hành án, ngày 27/02/2020 Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T1 ban hành Văn bản số 44/THADS đề nghị UBND xã Hòa Tân Tâỵ, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện T1 không giải quyết các yêu cầu về sang tên, chuyển nhượng, tặng cho, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh dưới bất kỳ hình thức nào liên quan đến nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng ông D, bà S1.

Ngày 06/5/2020 Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T1 ban hành Quyết định cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng ồng Danh, bà S1. Ngày 11/5/2020 Tòa án nhân dân huyện T1 có Văn bản số 68/TA yêu cầu Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T1 hoãn cưỡng chế. Do đó, Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T1 đã hoãn thi hành án cho đến nay. Hiện nay đã có 02 đơn yêu cầu thi hành án, kê biên, xử lý tài sản tại thửa đất số 755, tờ bản đồ số 14- D của vợ chồng ông D, bà S1 để thanh toán nợ. Do đó, đề nghị Tòa xét xử theo quy định pháp luật.

- Bà Nguyễn Thị Thanh V, ông Nguyễn Văn Đ1 trình bày: Bà V có đơn yêu cầu thi hành án, đã thi hành xong một phân, còn lại vẫn tiếp tục yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên, xử lý tài sản tại thửa đât số 755, tờ bản đồ số 14-D của vợ chong ông D, bà S1 để thanh toán nợ cho bà V.

- Vợ chồng ông Nguyễn Ngọc D, bà Ngô Thị S1 trình bày: Ngày 31/10/2019 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông B với giá 2.070.000.000đ, các bên đã khấu trừ nợ và thanh toán xong 1,4 tỷ đồng, còn lại 670 triệu đồng chưa thanh toán, vì chưa hoàn tất thủ tục sang tên trên giấy chứng nhận và chưa nhận bàn giao nhà, đất. Hiện nay, các bên đang tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Tòa án nhân dân huyện T1 đang thụ lý, giải quyết. Vì khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ thỏa thuận chuyển nhượng một ngôi nhà của vợ chồng ông D trên thừa đất 755, chứ không chuyển nhượng cả nhà ở của con ông D trên thửa 755. Do đó, đề nghị Tòa xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B.

Với những nội dung đã được xác định nêu trên, tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 17/2021/HC-ST, ngày17/6/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng Hành chính, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013.

Tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyên Xuân B - Về yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 31/10/2019 giữa ông Nguyễn Ngọc D, bà Ngô Thị S1 với ông Nguyễn Xuân B, thửa đất số 755, tờ bản đồ số 14-D, tại địa chỉ: Thôn X1, xã H1, huyện T1, tỉnh Phú Yên; diện tích 392m, đã được ủy ban nhân dân huyện T1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 653888 ngày 30/12/2013 đứng tên ông Nguyễn Ngọc D, bà Ngô Thị S1.

- Về yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên bồi thường thiệt hại do hành vi từ chối thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai gây ra.

Vì không có căn cứ pháp luật.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/6/2021 ông Nguyễn Xuân B là người khởi kiện có đơn kháng cáo đối với toàn bộ Bản án sơ thẩm, lý do kháng cáo của ông B cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông B là không đúng pháp luật, ông yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B về việc buộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên tiếp nhận hồ sơ và giải quyết thủ tục đăng ký biến động quyền sử dụng đất cho ông B đồng thời buộc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên phải bồi thường thiệt hại do không tiếp nhận và giải quyết hồ sơ đăng ký biến động quyền sử dụng đất của ông B.

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Bùi Trọng T (đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Xuân B tại giai đoạn phúc thẩm), giữ nguyên kháng cáo, ông T trình bày, việc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên từ chối nhận hồ sơ của ông B là không đúng, trường hợp không đồng ý chỉnh lý biến động theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phải nhận hồ sơ để xem xét rồi trả mới đúng quy định, các Văn bản số 147/TA ngày 08/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện T1; Văn bản số 44/THADS ngày 27/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1 không phải là các quyết định tố tụng; hiện ông B khởi kiện ông D, bà S1 là vụ án tranh chấp nợ chứ không phải tranh chấp quyền sử dụng thửa đất theo Hợp đồng chuyển nhượng, do vậy ông T đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông B.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:

Về thủ tục tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm: Hội đồng xét xử, những người tiến hành và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ kháng cáo của ông Nguyễn Xuân B, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xem xét kháng cáo của ông Nguyễn Xuân B, xét thấy:

[1]. Ông Nguyễn Xuân B khởi kiện cho rằng: Ngày 31/10/2019, ông B nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Ngọc D và bà Ngô Thị S1 tại thửa đất số 755, tờ bản đồ số 14-D tại thôn X1, xã H1, huyện T1, tỉnh Phú Yên, diện tích thửa đất 392m2 có Giấy CNQSDĐ số 653888 do UBND huyện T1 cấp ngày 30/12/2013. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng ngày 31/10/2019, đã thanh toán xong 1,4 tỷ đồng, còn lại 670 triệu đồng, ông B chưa nhận nhà đất. Ngày 11/11/2019, ông B nộp hồ sơ đăng ký biến động theo hợp đồng nói trên cho Văn phòng đăng ký đất đai (VPĐKĐĐ) tỉnh Phú Yên nhưng bị VPĐKĐĐ tỉnh Phú Yên từ chối nên ông B khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc VPĐKĐĐ tỉnh Phú Yên thực hiện hành vi và bồi thường thiệt hại.

[2]. Xem xét các lý do từ chối tiếp nhận hồ sơ chỉnh lý biến động theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của VPĐKĐĐ tỉnh Phú Yên. Xét thấy, vào thời điểm ông B nộp hồ sơ đăng ký biến động theo hợp đồng công chứng ngày 31/10/2019 cho VPĐKĐĐ tỉnh Phú Yên thì tại TAND huyện T1 đang thụ lý một số vụ án tranh chấp dân sự có liên quan đến ông D, bà S1, các đương sự trong các vụ án này cũng đang có đơn yêu cầu áp dụng biện pháp ngăn chặn việc chuyển dịch tài sản của ông D, bà S1, do vậy, để đảm bảo tính kịp thời TAND huyện T1 đã ban hành Công văn số 147/TA ngày 08/11/2019 về việc không thực hiện thủ tục chỉnh lý đăng ký biến động đất đai sang tên chủ sở hữu đối với quyền sử dụng đất của ông D, bà S1 tại thửa đất số 755 tờ Bản đồ số 14-D gửi VPĐKĐĐ tỉnh Phú Yên, tuy nhiên, các vụ án đã được giải quyết và có Quyết định, Bản án của Tòa án và Cơ quan Thi hành án dân sự đã thụ lý thi hành án nên Tòa án không ban hành Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đến ngày 27/02/2020, VPĐKĐĐ tỉnh Phú Yên tiếp tục nhận Công văn số 44/THADS ngày 27/02/2020 của Chi cục THADS huyện T1 yêu cầu chi nhánh VPĐKĐĐ huyện T1 không giải quyết vì các yêu cầu về sang tên, tặng cho, cầm cố, thế chấp, bão lãnh dưới bất kỳ hình thức nào liên quan đến nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chông ông D bà S1 tại thửa đất số 755, tờ Bản đồ số 14-D do có yêu cầu thi hành án của bà Nguyễn Thị Thanh V và ông Nguyễn Văn Đ1. Qua nội dung các Công văn nêu trên chứng tỏ tài sản nhà đất của ông D, bà S1 tại thửa đất số 755 tờ Bản đồ số 14-D còn liên quan nhiều quan hệ giao dịch cũng như liên quan đến việc thi hành án đối với các Bản án khác. Mặc khác, quan hệ giao dịch mua bán nhà đất giữa ông D bà S1 với ông Nguyễn Xuân B xuất phát từ việc cấn trừ nợ, thanh toán với nhau chưa xong, việc chuyển nhượng tài sản nhà cửa trên thửa đất còn chưa thống nhất (Theo ông D, bà S1 trình bày trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng, thửa đất số 755 có một ngôi nhà của con ông D, bà S1 chưa được làm rõ về quyền sở hữu trước khi ông D, bà S1 ký hợp đồng chuyển nhượng đất).

Ngoài ra, theo trình bày của ông B cũng như qua thu thập tài liệu bổ sung của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho thấy ông B đang tranh chấp nợ nần liên quan Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông B với ông Nguyễn Ngọc D và bà Ngô Thị S1, TAND huyện T1 đang thụ lý vụ án số 37/2020/TLST-DS ngày 21/4/2020. Căn cứ Công văn số 216/TA ngày 22/11/2021 của TAND huyện T1 gửi Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng còn cho biết do vụ án có dấu hiệu hình sự nên TAND huyện T1 đã tạm đình chỉ giải quyết vụ án từ ngày 19/9/2020 để chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện T1 xem xét theo thủ tục tố tụng hình sự.

Với những nội dung phân tích nêu trên, xét thấy tại Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2021/HC-ST ngày 17/6/2021 của TAND tỉnh Phú Yên đã bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân B là có căn cứ, đúng pháp luật. Do vậy, Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông Nguyễn Xuân B, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[3].Về án phí sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí phúc thẩm: Do bị bác kháng cáo nên ông Nguyễn Xuân B phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính:

1/. Bác kháng cáo của ông Nguyễn Xuân B, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

2/. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng Hành chính, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013.

Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyên Xuân B, - Về yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 31/10/2019 giữa ông Nguyễn Ngọc D, bà Ngô Thị S1 với ông Nguyễn Xuân B, thửa đất số 755, tờ bản đồ số 14-D, tại địa chỉ: Thôn X1, xã H1, huyện T1, tỉnh Phú Yên; diện tích 392m, đã được ủy ban nhân dân huyện T1 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB 653888 ngày 30/12/2013 đứng tên ông Nguyễn Ngọc D, bà Ngô Thị S1.

- Về yêu cầu Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Phú Yên bồi thường thiệt hại do hành vi từ chối thực hiện thủ tục đăng ký biến động đất đai gây ra.

Vì không có căn cứ pháp luật.

3/. Về án phí sơ thẩm: Do không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4/. Về án phí phúc thẩm: Áp dụng khoản 1 Điều 34 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 - Ông Nguyễn Xuân B phải chịu 300.000đ án phí Hành chính phúc thẩm, ông B đã nộp đủ (do bà Trần Thị Thu Hiền nộp thay) tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000870 ngày 07/9/2021 của Cục THADS tỉnh Phú Yên.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và yêu cầu bồi thường thiệt hại số 288/2021/HC-PT

Số hiệu:288/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về