TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 837/2022/HC-PT NGÀY 30/09/2022 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 427/2022/TLPT-HC ngày 29 tháng 7 năm 2022 về “Khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2022/HC-ST ngày 30 tháng 5 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1879/2022/QĐ-PT ngày 08 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Lâm Kiếm Đ, sinh năm 1973 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số 268, đường N, khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Phan Hoàng N1, sinh năm 1975 (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 04/06/2021 – BL 12) (có mặt);
Địa chỉ: Số 288, Tổ 1, ấp P, xã M, huyện H, tỉnh Kiên Giang.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố S, tỉnh Sóc Trăng;
Địa chỉ: Số 93, đường P1, Phường 2, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn Q- Chủ tịch (có đơn xin vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Lâm Kiếm Đ là người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 06/04/2021 (BL 16) và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Phan Hoàng N1 trình bày:
Theo Bản án sơ thẩm số 23/2018/DS-ST ngày 30/05/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về việc chia thừa kế thì ông Đ được giao quyền sở hữu, sử dụng đối với quyền sử đất có diện tích 66m2 thuộc thửa số 294, tờ bản đồ 01, tọa lạc tại số 268, đường N, khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
Đồng thời, ông Đ có nghĩa vụ hoàn trả giá trị cho các anh chị em với số tiền là 856.055.400 đồng. Khi Bản án có hiệu lực pháp luật, ông đã thi hành xong nghĩa vụ của mình nên Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S ban hành Công văn số 845/CTHADS-NV ngày 27/07/2020 về việc đề nghị lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đ.
Ngoài ra, khi thực hiện dự án quy hoạch chỉnh trang đô thị Đường 30/4 và đường N, ông Đ phải phá dỡ căn nhà của mình để giao cho hộ kế bên phần đất có diện tích 11m2. Đồng thời, Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố S giao cho ông Đ 11m2 để đảm bảo phần đất của ông được nhận đúng theo quy định về diện tích đất được cấp. Theo Quyết định số 3544/QĐ-UBND ngày 13/02/2017 của UBND thành phố S về việc phê duyệt bù trừ tiền chênh lệch giá đất tái định cư 12 lô đất Đường 30/4 và đường N, Phường 3, thành phố S thì ông Đ phải nộp cho Ban quản lý dự án số tiền 220.000.000 đồng để được nhận đủ diện tích đúng theo quy định là 77m2.
Ngày 07/3/2018, ông Đ đã nộp đủ số tiền 220.000.000 đồng cho Ban quản lý dự án. Như vậy, tổng diện tích mà UBND phải cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 77m2, đã được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố S có Công văn số 14/CV-CNVPĐKĐĐTP ngày 24/01/2019 xác định số thửa đất, số tờ bản đồ đối với thửa đất của ông Đ. Từ khi phá dỡ nhà để giao cho hộ kế cận thì gia đình ông Đ không có nhà để ở phải đi thuê nhà trọ.
Ngày 26/01/2021, ông Đ làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất trên (thuộc thửa đất số 294, tờ bản đồ 01, diện tích 77m2 tọa lạc tại khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng) nhưng UBND thành phố S không nhận để xem xét, giải quyết mà trả hồ sơ. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đ.
Nay ông Lâm Kiếm Đ yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Buộc UBND thành phố S nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ đối với phần đất thuộc thửa số 294, tờ bản đồ 01, diện tích 77m2 tọa lạc tại khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng đúng theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu UBND thành phố S bồi thường thiệt hại với số tiền là 69.000.000 đồng (tiền thuê nhà trọ mỗi tháng là 1.500.000 đồng tạm tính từ ngày 08/3/2017 đến ngày 08/6/2021 là 51 tháng).
Tại Văn bản số 764/UBND-HC ngày 13/5/2022 (BL 67) và số 857/UBND- HC ngày 26/5/2022, người đại diện theo ủy quyền của UBND thành phố S có ý kiến như sau:
Theo hồ sơ giải phóng mặt bằng dự án Cao ốc kinh doanh tổng hợp trung tâm thành phố S, thể hiện đất hiện trạng tại căn nhà số 268, đường N, khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, trước đây là thửa 60 tờ bản đồ số 02, diện tích 66m2 (loại đất ODT), vị trí: Đông giáp nhà và đất Quách Diễm L 21,14m; Tây giáp nhà và đất Thái Huệ K(Lâm Chí C) 21,16m; Nam giáp đất mương nước sinh hoạt 3,18m; Bắc giáp đường N 3,06m.
Thửa đất trên chuyển đổi vị trí mới (ông Đ có bù trừ tiền chênh lệch giá đất tái định cư) hiện nay là thửa số 294 (lô K7), tờ bản đồ 01, diện tích 77m2 (loại đất ODT), tọa lạc tại đường N, khóm 6, Phường 3, thành phố S, vị trí: Đông giáp đất Quách Diễm L(nay Trần Quốc H1) 18,85m; Tây giáp Bãi giữ xe trung tâm thành phố 18,65m; Nam giáp đất mương nước sinh hoạt và đất ông Võ Phước H2 4,10m; Bắc giáp đường N 4,10m.
Vị trí sắp xếp mới cho ông Đ tại lô K7 nêu trên hiện ông Lâm Chí C không đồng ý tháo dỡ căn nhà hiện trạng giao mặt bằng để thực hiện xây dựng căn nhà tại lô K7 mà UBND thành phố S phê duyệt tại Quyết định số 3541A/QĐHC-UBND ngày 07/02/2017 nên Phòng Tài nguyên và Môi trường chưa tham mưu UBND thành phố S giao đất cho ông Đ được theo phương án UBND thành phố S phê duyệt tại Quyết định số 3544/QĐHC-UBND ngày 13/02/2017.
Tuy nhiên, diện tích 77m2, thuộc thửa số 294, tờ bản đồ 01, tọa lạc tại đường N, khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng chưa đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì thửa đất đến nay chưa thực hiện giao cho ông Đ được, do còn 02 trường hợp (ông Lâm Chí C và bà Nguyễn Thị Bạch T) chưa đồng ý di dời giao mặt bằng cho Nhà nước thực hiện dự án; tại Công văn số 117/UBND-HC ngày 18/01/2019, Chủ tịch UBND thành phố S có trả lời cho ông Đđược biết.
Qua kiểm tra, rà soát thì vào ngày 21/8/2020 ông Đ có làm đơn yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 77m2, thuộc thửa số 294, tờ bản đồ 01, tọa lạc tại đường N, khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng; Phòng Tài nguyên và Môi trường có Báo cáo số 220/BC-TNMT ngày 26/10/2020, đề xuất UBND thành phố S giao Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố S tổ chức thực hiện các bước tiếp theo đối với ông Lâm Chí C và bà Nguyễn Thị Bạch T để thực hiện dự án “Chỉnh trang đô thị” trên địa bàn Phường 3, thành phố S xong mới giải quyết được yêu cầu của ông Đ đề ngày 21/8/2020.
Ngày 26/01/2021, ông Đ không có nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 77m2, thuộc thửa số 294, tờ bản đồ 01, tọa lạc tại đường N, khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
Do vậy, nội dung khởi kiện của ông Lâm Kiếm Đ liên quan đến hành vi hành chính của UBND thành phố S trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không phù hợp.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2022/HC-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc trăng đã tuyên xử:
1/- Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện Lâm Kiếm Đ về việc yêu cầu buộc UBND thành phố S nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ theo luật định.
2/- Đình chỉ xét xử đối với toàn bộ yêu cầu của ông Lâm Kiếm Đ về việc yêu cầu UBND thành phố S bồi thường thiệt hại với số tiền là 69.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 07/6/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng nhận đơn kháng cáo của người khởi kiện ông Lâm Kiếm Đ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông Lâm Kiếm Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện không đúng quy định của pháp luật, bởi vì:
Thứ nhất: Bản án cho rằng người khởi kiện không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh vào ngày 26/01/2021 có nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho UBND thành phố S. Do đó, ông Đ kiện UBND thành phố S có hành vi không nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận là không có cơ sở. Bản án nhận định như vậy là không đúng với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Ông Đ có chứng cứ thể hiện ông có nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 3 lần vào ngày 21/8/2020, ngày 24/9/2020, lần 3 ngày 12/01/2021, UBND không có văn bản trả lời, chỉ trả lại hồ sơ cho ông Đ. Công văn 764/UBND-HC ngày 13/5/2022 UBND thành phố S gửi cho Tòa án trang 4 của Công văn này có thể hiện vào ngày 26/01/2021 ông Đ có nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 21/8/2020 ông Đ gửi Đơn yêu cầu UBND thành phố S cấp giấy chứng nhận thể hiện tại Báo cáo số 220/BC- TNMT ngày 26/10/2020 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố S, UBND thành phố S không làm văn bản trả lời, chỉ trả lại hồ sơ.
Thứ hai: Tại mục 7, 8, 9 cho rằng việc UBND thành phố S không nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ là trái pháp luật, đây không phải hành vi hành chính là không đúng. Theo quy định của pháp luật đất đai thì người xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải làm hồ sơ gửi cho UBND cấp xã hoặc Văn phòng Đăng ký đất đai. Ông Đ làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi tại UBND thành phố S là đúng quy định. UBND thành phố S nhận hồ sơ và trả lời có chấp nhận hay không nhưng UBND thành phố S không nhận hồ sơ là không đúng quy định pháp luật.
Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết sửa toàn bộ bản án sơ thẩm, theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Lâm Kiếm Đ. Ông Đ kiện yêu cầu UBND thành phố S nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ theo luật định. Căn cứ tường trình ngày 31/12/2021 kèm theo biên bản yêu cầu cung cấp chứng cứ và tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện cho ông Đ không cung cấp được chứng cứ ngày 26/01/2021 có nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho UBND thành phố S. Ông N1 đại diện cho ông Đ không cung cấp được chứng cứ UBND thành phố S từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Văn phòng Đăng ký đất đai cũng không có nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ. Yêu cầu khởi kiện của ông Đ không có căn cứ. Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ ý kiến của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:
Ngày 06/4/2021 ông Lâm Kiếm Đ khởi kiện yêu cầu xem xét hành vi không nhận hồ sơ để xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của UBND thành phố S; Yêu cầu UBND thành phố S bồi thường thiệt hại với số tiền là 69.000.000 đồng (tiền thuê nhà trọ mỗi tháng là 1.500.000 đồng tạm tính từ ngày 08/3/2017 đến ngày 08/6/2021 là 51 tháng).
Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính, thời hiệu khởi kiện vẫn còn và Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Xét kháng cáo của ông Lâm Kiếm Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Theo khởi kiện thì ông Đ cho rằng vào ngày 26/01/2021, ông Đ làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 77m2, thửa đất số 294, tờ bản đồ số 01, tại đường N, khóm 6, Phường 3, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, nhưng UBND thành phố S không nhận để xem xét, giải quyết. Ngược lại, theo người bị kiện không thừa nhận vào ngày 26/01/2021 ông Đkhông có nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[2.2] Ông Đ không yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi của UBND thành phố S về việc không nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ là trái pháp luật; mà ông Đ chỉ yêu cầu Tòa án buộc UBND thành phố S nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ đúng theo quy định của pháp luật.
[2.3] Theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và theo quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 193 thì đặc thù của vụ án hành chính đối tượng khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là “quyết định hành chính và hành vi hành chính…”, khi có căn cứ tuyên bố hành vi hành chính bị khởi kiện là trái pháp luật thì mới phát sinh quyền của Hội đồng xét xử buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật và buộc bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm do hành vi hành chính… trái pháp luật gây ra. Mặc dù ông Đ không yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi hành chính của UBND thành phố S về việc không nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ là trái pháp luật; mà chỉ yêu cầu Tòa án buộc UBND thành phố S nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ theo luật định; nhưng khi xem xét đối với yêu cầu của ông Lâm Kiếm Đ thì phải xem xét đến tính có căn cứ, hợp pháp và có xảy ra trên thực tế đối với hành vi hành chính của UBND thành phố S về việc không nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ.
Người khởi kiện ông Lâm Kiếm Đ không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh vào ngày 26/01/2021 UBND thành phố S có hành vi không nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ. Đồng thời, tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của ông Đ là ông Phan Hoàng N1 cũng xác nhận không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh vào ngày 26/01/2021 UBND thành phố S có hành vi không nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Đ là có căn cứ. Yêu cầu UBND thành phố S bồi thường thiệt hại với số tiền là 69.000.000 đồng (tiền thuê nhà trọ mỗi tháng là 1.500.000 đồng tạm tính từ ngày 08/3/2017 đến ngày 08/6/2021 là 51 tháng) thì rút lại nên Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ là đúng pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện cho ông Đ trình bày Công văn 764/UBND-HC ngày 13/5/2022 UBND thành phố S gửi cho Tòa án trang 4 của Công văn này có thể hiện vào ngày 26/01/2021 ông Đ có nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Xem xét nội dung Công văn 764/UBND-HC ngày 13/5/2022 UBND thành phố S không có nội dung như người đại diện cho ông Đ trình bày.
[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Đ, giữ nguyên án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Đ phải chịu án phí do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 30; Điều 32; Điều 116; Điều 193; khoản 1 Điều 241; Điều 348 và Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Lâm Kiếm Đ.
Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 04/2022/HC-ST ngày 30/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, cụ thể như sau:
1/- Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện Lâm Kiếm Đ về việc yêu cầu buộc UBND thành phố S nhận hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Lâm Kiếm Đ theo luật định.
2/- Đình chỉ xét xử đối với toàn bộ yêu cầu của ông Lâm Kiếm Đ về việc yêu cầu UBND thành phố S bồi thường thiệt hại với số tiền là 69.000.000 đồng.
3/- Về án phí hành chính sơ thẩm: Người khởi kiện Lâm Kiếm Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai thu số 0001372 ngày 09/11/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng. Ông Lâm Kiếm Đ đã nộp đủ án phí hành chính sơ thẩm.
4/- Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Lâm Kiếm Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai thu số 0002411 ngày 07/6/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Sóc Trăng. Ông Lâm Kiếm Đ đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 837/2022/HC-PT
Số hiệu: | 837/2022/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về