Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính số 156/2023/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 156/2023/HC-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH

Trong ngày 21 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 220/2023/TLST-HC ngày 11/8/2023 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 197/2023/QĐXXST-HC ngày 28/8/2023, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Bà Võ Thị Tuyết N, sinh năm 1964;

Địa chỉ: Số 15 H, khu phố 5, Phường 2, thị xã K, tỉnh A.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1954. Địa chỉ: Số 03, khu phố 1, Phường 1, thị xã K, tỉnh A.

2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A.

Người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A là ông La Văn D – Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A là ông Dương Tuấn A, Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện K, tỉnh A.

(Bà D, ông A có mặt; ông D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Tại đơn khởi kiện ngày 24/5/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày 07/8/2023 và lời trình bày của đại diện người khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa có nội dung:

Trước đây bà N ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất với bà Đỗ Thị L theo kết quả trúng đấu giá số 3157/QĐ-UBND ngày 11/12/2019 của Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A gồm 02 thửa đất bao gồm thửa 3706, tờ bản đồ số 4 và thửa số 3708, tờ bản đồ số 4 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K phê duyệt ngày 21/8/2020 theo hồ sơ số 3003032.CN.001 và 3003034.CN.001. Sau đó, Nhà nước thu hồi 02 thửa đất trên để làm Công viên cây xanh Trường trung học phổ thông Kiến Tường. Ủy ban nhân dân huyện K mời bà N đến thương lượng giải quyết. Tại cuộc họp ngày 26/5/2022 thì giữa bà N và Ủy ban nhân dân huyện K đã thống nhất với nhau như sau: Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ. Tuy nhiên, đến nay Ủy ban nhân dân huyện K không thực hiện hành vi theo tinh thần cuộc họp trên. Nay bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long buộc Ủy ban nhân dân huyện K thực hiện hành vi hành chính theo cuộc họp ngày 26/5/2022 là Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ.

Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên Tòa có nội dung như sau:

Ngày 29/12/2017 Ủy ban nhân dân huyện K ban hành Quyết định số 4792/QĐ-UBND về việc giao đất cho Trường THPT K.

Ngày 11/01/2018 Trường THPT K được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cố CK 634559 đối với thửa đất số 2285, diện tích 64.806 m2, tờ bản đồ số 4, Phường 1, huyện K.

Ngày 28/8/2019 Ủy ban nhân dân huyện K ban hành Quyết định số 2175/QĐ-UBND điều chỉnh 500 m2 đất công trình công cộng (trường mẫu giáo) và 58 m2 đất giao thông thành khu đất phân lô (7 lô, đất ở).

Ngày 16/10/2019 Ủy ban nhân dân huyện K ban hành Quyết định số 2561/QĐ-UBND về việc phê duyệt giá khởi điểm tổ chức thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất thuộc tuyến dân cư vượt lũ đường Lê Lợi nối dài.

Sau khi thực hiện bán đấu giá, Ủy ban nhân dân huyện K rà soát lại diện tích đất thì có 04 lô trùng vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Trường THPT K (lô 40, 41, 42, 43). Trong đó, lô 40 người sử dụng đất đã thực hiện việc xây dựng nhà, lô 41, 42, 43 (gồm 02 người) chưa xây dựng.

Ngày 26/5/2022 Ủy ban nhân dân huyện K mời bà Trần Thị H (đại diện bà H) và bà Nguyễn Thị D (đại diện bà N) đến để trao đổi đối với việc các lô đất mà Ủy ban nhân dân huyện K bán đấu giá trùng với giấy chứng nhận của Trường THPT K. Qua trao đổi các hộ đồng ý giao lại diện tích đất thuộc lô 41, 42, 43 cho Trường PHPT K nhưng với yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện K giao lại đất tại khu đô thị Sân Bay giai đoạn 2 cho các hộ, về giá đất bằng với giá tại Tuyến dân cư vượt lũ đường Lê Lợi nối dài, các hộ sẽ nộp bổ sung tiền sử dụng đất đối với phần diện tích chênh lệch (Biên bản số 1448/BB-UBND). Nay Ủy ban nhân dân huyện K thống nhất nội dung biên bản số 1448/BB-UBND ngày 26/5/2022 nêu trên.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh A tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán đã thực hiện đúng theo trình tự thủ tục tố tụng quy định. Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền, Tòa án xác định đúng đối tượng, khi bà N khởi kiện là còn trong thời hiệu nên việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ, căn cứ vào phần tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Tuyết N về việc khởi kiện hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A.

Buộc Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A thực hiện hành vi hành chính theo biên bản số 1448/BB-UBND ngày 26/5/2022 là Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà Võ Thị Tuyết N. Bà Võ Thị Tuyết N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ (một tỷ, một trăm sáu mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi chín ngàn đồng).

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Thủ tục tố tụng:

[1.1] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Võ Thị Tuyết N yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh A buộc Ủy ban nhân dân huyện K thực hiện hành vi hành chính theo như nội dung biên bản số 1448/BB-UBND ngày 26/5/2022 là Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ. Đây là khiếu kiện hành vi hành chính, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh A theo quy định tại khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính.

[1.2] Về thời hiệu khởi kiện: Tại biên bản số 1448/BB-UBND ngày 26/5/2022 giữa bà H và Ủy ban nhân dân huyện K thỏa thuận có nội dung: Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân huyện K không thực hiện theo biên bản trên nên vào ngày 25/5/2023 bà N nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh A là còn thời hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.

[1.3] Về việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã lập biên bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản đối thoại vào ngày 11/9/2023 theo quy định của Điều 137, 138, Điều 139 Luật Tố tụng Hành chính.

[1.4] Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án người bị kiện có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 157; khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính Tòa án nhân dân tỉnh A tiến hành xét xử vắng mặt đối với người bị kiện.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hành vi hành chính bị kiện, xét thấy:

Trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa sơ thẩm:

Đại diện người khởi kiện cho rằng: Bà N ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử đất với bà Đỗ Thị L theo kết quả trúng đấu giá số 3157/QĐ-UBND ngày 11/12/2019 của Ủy ban nhân dân huyện K gồm 02 thửa. Cụ thể là thửa 3706, tờ bản đồ số 4 và thửa số 3708, tờ bản đồ số 4 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K phê duyệt ngày 21/8/2020. Sau đó, Nhà nước thu hồi 02 thửa đất trên để làm Công viên cây xanh Trường THPT K. Ủy ban nhân dân huyện K mời bà N đến thương lượng giải quyết. Tại cuộc họp ngày 26/5/2022 thì giữa bà N và Ủy ban nhân dân huyện K đã thống nhất với nhau như sau: Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ. Tuy nhiên, đến nay Ủy ban nhân dân huyện K không thực hiện hành vi theo cuộc họp trên.

Ủy ban nhân dân huyện K cho rằng: Ngày 26/5/2022 Ủy ban nhân dân huyện K mời bà Nguyễn Thị Tuyết Dung (đại diện bà N) đến để trao đổi đối với việc 02 lô đất mà Ủy ban nhân dân huyện K bán đấu giá trùng với giấy chứng nhận của Trường THPT K. Qua trao đổi bà Dung đồng ý giao lại 02 lô đất đã mua cho Trường PHPT K nhưng với yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện K giao lại 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N, về giá đất bằng với giá tại Tuyến dân cư vượt lũ đường Lê Lợi nối dài, bà N sẽ nộp bổ sung tiền sử dụng đất đối với phần diện tích chênh lệch. Nay Ủy ban nhân dân huyện K thống nhất nội dung biên bản số 1448/BB-UBND ngày 26/5/2022 nêu trên.

Xét lời trình bày của các đương sự thấy rằng: Ngày 30/12/2022 Ủy ban nhân dân huyện K ban hành Quyết định số 4077/QĐ-UBND về việc hủy một phần kết quả trúng đấu giá quyền sử dụng đất 03 lô đất thuộc tuyến dân cư vượt lũ Lê Lợi và ban hành Quyết định số 64/QĐ-UBND ngày 31/01/2023 về việc thu hồi đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà N. Sau đó, thông qua cuộc họp ngày 26/5/2022 giữa bà N và Ủy ban nhân dân huyện K thống nhất với nhau nội dung như sau: Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ. Tuy nhiên, cho đến nay Ủy ban nhân dân huyện K chưa thực hiện hành vi giao lô đất cho bà N theo như thỏa thuận. Xét thấy, bà N đồng ý giao 02 lô đất do bà N mua thông qua đấu giá cho Trường THPT K. Ủy ban nhân dân huyện K thỏa thuận giao cho bà N 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ, Đây là thỏa thuận phù hợp với qui định pháp luật. Việc Ủy ban nhân dân huyện K không thực hiện hành vi hành chính theo như thỏa thuận trên là trái với qui định pháp luật.

Tại phiên Tòa hôm nay người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Ủy ban nhân dân huyện K cho rằng: Hiện nay Ủy ban nhân dân huyện K đồng ý thực hiện hành vi hành chính theo biên bản số 1448/BB-UBND ngày 26/5/2022 là Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ.

[2.2] Qua phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Tuyết N về việc khởi kiện hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh A đã đề nghị.

[2.3] Buộc Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A thực hiện hành vi hành chính theo biên bản số 1448/BB-UBND ngày 26/5/2022 là Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà N. Bà N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ (một tỷ, một trăm sáu mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi chín ngàn đồng).

[3] Về án phí: Bà Võ Thị Tuyết N không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả cho bà N 300.000đồng tạm ứng án phí bà N đã nộp theo Biên lai thu số 0003798 ngày 09/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh A.

Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của Điều 348 Luật Tố tụng hành chính và Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 193; Điều 348, Luật Tố tụng hành chính; Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Tuyết N về việc khởi kiện hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A.

Buộc Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A thực hiện hành vi hành chính theo biên bản số 1448/BB-UBND ngày 26/5/2022 là Ủy ban nhân dân huyện K giao 02 lô đất số 30 và số 31 (đường Lý Thường Kiệt và đường Nguyễn Tri Phương) cho bà Võ Thị Tuyết N. Bà Võ Thị Tuyết N sẽ nộp số tiền chênh lệch là 1.168.639.000đ (một tỷ, một trăm sáu mươi tám triệu, sáu trăm ba mươi chín ngàn đồng).

2. Về án phí: Bà Võ Thị Tuyết N không phải nộp án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả cho bà N 300.000đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0003798 ngày 09/8/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh A.

Ủy ban nhân dân huyện K, tỉnh A phải nộp 300.000đ án phí hành chính sơ thẩm.

3. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

4. Bản án hành chính được thi hành theo quy định tại Điều 309, 311 và 312 Luật Tố tụng hành chính.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính số 156/2023/HC-ST

Số hiệu:156/2023/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về