TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 165/2020/HC-PT NGÀY 10/07/2020 VỀ HỦY QUYẾT ĐỊNH CƯỠNG CHẾ THU HỒI ĐẤT VÀ YÊU CẦU LẬP PHƯƠNG ÁN BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
Ngày 10 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 48/2020/TLPT-HC ngày 15/01/2020 về việc khởi kiện “yêu cầu hủy quyết định cưỡng chế thu hồi đất”, do có kháng cáo của người khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2019/HC-ST ngày 14/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh B.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4643/2020/QĐ-PT ngày 18/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Vũ Văn N, sinh năm 1959; địa chỉ cư trú tại thôn Y, xã Y, huyện Y, tỉnh B; vắng mặt tại phiên tòa.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1962, là vợ ông Vũ Văn N; địa chỉ cư trú tại thôn Y, xã Y, huyện Y, tỉnh B; có mặt tại phiên tòa.
Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y; địa chỉ trụ sở tại Thị trấn C, huyện Y, tỉnh B; có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện Y; địa chỉ trụ sở tại thị trấn C, huyện Y, tỉnh B;
có đơn xin được mặt tại phiên tòa.
2. Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1962, có mặt tại phiên tòa. Anh Vũ Văn S, chị Vũ Thị S, chị Vũ Thị X, có cùng địa chỉ cư trú tại thôn Y, xã Y, huyện Y, tỉnh B. Anh S, chị S, chị X đều ủy quyền cho bà Nguyễn Thị N theo Giấy ủy quyền ngày 04/6/2019.
3. Công ty Trách nhiệm hữu hạn xây dựng A; địa chỉ công ty tại Lô 3-N9 Đường N, phường V, thành phố B. Bà Nguyễn Thị M là Giám đốc công ty có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện của ông Vũ Văn N và các tài liệu do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Gia đình ông Vũ Văn N là chủ sử dụng hợp pháp một số diện tích đất nông nghiệp tại thôn Yên Lãng, xã Y, huyện Y, tỉnh B. Ngày 10/01/2017, Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B ban hành Quyết định số 28/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất để giao đất xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu nhà ở hoàn trả vốn dự án đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp, mở rộng đường trục xã Y, huyện Y theo hình thức BT. Theo đó, gia đình ông N là một trong những hộ gia đình có diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi. Tổng diện tích đất nông nghiệp của gia đình ông N bị thu hồi là 724,2m2; số tiền gia đình ông Vũ Văn N được bồi thường là 317.923.800 đồng. Cho rằng giá đất được bồi thường quá thấp nên ông N không đồng ý và không nhận số tiền bồi thường.
Ngày 28/09/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định số 7285/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất nông nghiệp đối với 60 hộ gia đình tại thôn Yên Lãng, xã Y, huyện Y trong đó có gia đình ông N với lý do: Gia đình ông N không chấp hành Quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân huyện, không nhận bồi thường, hỗ trợ; không bàn giao đất để thực hiện dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu nhà ở hoàn trả vốn dự án xây dựng cải tạo, nâng cấp mở rộng đường trục xã Y, huyện Y theo hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT). Ngày 24/10/2018, Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Thông báo số 110/TB- UBND về việc thông báo tổ chức cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất nông nghiệp đối với những hộ dân chưa giao mặt bằng để thực hiện dự án.
Ông N cho rằng, việc Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định 7285/QĐ-UBND ngày 28/09/2018 là trái với quy định của pháp luật dẫn tới việc ban hành Thông báo số 110/TB-UBND không đúng vì các lý do: (1) Trình tự thủ tục thu hồi đất không đúng quy định pháp luật do không khảo sát, không kiểm đếm tài sản trên đất, không niêm yết công khai phương án, sau đó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện đã vội vàng ra quyết định cưỡng chế thu hồi đất không đúng với quy định tại Điều 67 của Luật đất đai. (2) Về giá bồi thường Ủy ban nhân dân huyện Y áp dụng mức 158.040.000 đồng/360m2 (439.000 đồng/m2) là quá rẻ, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông. Ông yêu cầu phải bồi thường theo mức giá là 1.200.000.000 đồng/sào (Một tỷ hai trăm triệu đồng/sào); (3) Trên diện tích đất của gia đình ông bị thu hồi có trồng cây ăn quả, khi cưỡng chế, Ủy ban nhân dân huyện Y thu hồi đất song không tiến hành kiểm đếm và không bồi thường thỏa đáng cho gia đình ông. Theo đó, ông đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B: (1) Hủy một phần Quyết định số 7285/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y về việc cưỡng chế thu hồi đất nông nghiệp đối với hộ gia đình ông. (2) Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Y lập lại phương án bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất nông nghiệp của gia đình ông với số tiền là 2.414.000.000 đồng (Hai tỷ bốn trăm mười bốn triệu đồng) đối với diện tích 724,2m2 đất nông nghiệp bị thu hồi và (3) Bồi thường 150.000.000 đồng đối với số cây ăn quả trên đó (200 cây bưởi, 50 cây ổi đang đến thời kỳ thu hoạch) cho gia đình ông.
Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện trình bày:
Dự án Đầu tư xây dựng cải tạo nâng cấp mở rộng đường trục xã Y, huyện Y được thực hiện theo hình thức Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT); Ủy ban nhân dân tỉnh B đã có quyết định chủ trương đầu tư đối với Dự án cải tạo, nâng cấp, mở rộng đường trục xã Y, huyện Y theo hình thức BT. Do vậy, việc thu hồi đất này thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cộng đồng theo quy định tại Điều 62 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai và Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Ngày 10/01/2017, Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định số 28/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất để giao đất xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu nhà ở hoàn trả vốn dự án đầu tư xây dựng cải tạo nâng cấp, mở rộng đường trục xã Y, huyện Y theo hình thức BT.
Ngày 31/12/2017, Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định số 7854/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất để giao đất thực hiện dự án.
Kết quả thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ tính đến ngày 30/10/2018, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng đã tổ chức 10 đợt chi trả tiền. Một số hộ gia đình cố tình không nhận tiền bồi thường và không bàn giao đất theo quy định, mặc dù đã được vận động, thuyết phục rất nhiều lần. Lý do các hộ gia đình không nhận tiền bồi thường vì đều cho rằng giá bồi thường, hỗ trợ theo quyết định phê duyệt là quá thấp, các hộ yêu cầu được thỏa thuận bồi thường và đề nghị được mua đất ở với giá ưu đãi.
Theo Quyết định số 28/QĐ-UBND ngày 10/01/2017, được điều chỉnh bổ sung tại Quyết định số 7854/QĐ-UBND ngày 31/12/2017 của Ủy ban nhân dân huyện Y thì: Hộ gia đình ông Vũ Văn N có tổng diện tích bị thu hồi là 724,2m2; tổng số tiền được bồi thường, hỗ trợ là 317.923.800 đồng. Việc chi trả tiền bồi thường do Nhà đầu tư là Công ty TNHH xây dựng A ứng trước để thực hiện.
Đây là dự án Nhà nước thu hồi đất để giao đất xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu nhà ở hoàn trả vốn dự án đầu tư xây dựng cải tạo nâng cấp, mở rộng đường trục xã Y, huyện Y theo hình thức BT nên giá bồi thường được áp dụng theo quy định của Ủy ban nhân dân tỉnh B tại Quyết định 552/2014/QĐ-UBND ngày 28/12/2014 và Quyết định 528/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014; tổng đơn giá bồi thường hỗ trợ đối với 360m2 (01 sào Bắc Bộ) đất nông nghiệp giao lâu dài trên địa bàn huyện là 158.040.000 đồng.
Về việc cưỡng chế thu hồi đất: Do việc chi trả tại thôn Yên Lãng, xã Y gặp nhiều khó khăn do các hộ không đồng ý với đơn giá bồi thường. Ngày 20/4/2018, Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B ban hành Quyết định số 3204/QĐ-UBND thành lập Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất; Ủy ban nhân dân xã Y thành lập Tổ vận động thu hồi đất tại Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 26/4/2018. Sau 03 đợt Tổ vận động tuyên truyền thu hồi đất của xã Y tiến hành vận động các hộ gia đình nhận tiền bồi thường để đảm bảo tiến độ thực hiện dự án, tính đến 26/5/2018, còn 60/118 hộ gia đình có đất thu hồi thôn Yên Lãng chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Ngày 29/8/2018, Ủy ban nhân dân tỉnh B có Văn bản số 333/UBND-TNMT về việc đồng ý cho Ủy ban nhân dân huyện Y cưỡng chế thu hồi đất thực hiện dự án đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp mở rộng đường trục xã Y, huyện Y theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT). Ngày 28/9/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B ban hành Quyết định số 7285/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất nông nghiệp đối với 60 hộ gia đình thôn Yên Lãng, xã Y do cố tình không nhận tiền bồi thường và không giao mặt bằng, trong đó có gia đình ông Vũ Văn N. Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện khẳng định thẩm quyền và trình tự thủ tục thu hồi đất cũng như việc cưỡng chế thu hồi đất là đúng quy định pháp luật và đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn N.
Đại diện của Công ty TNHH xây dựng A trình bày:
Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng A là đơn vị được lựa chọn là nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp mở rộng đường trục xã Y, huyện Y theo hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) tại Quyết định số 696/QĐ-UBND ngày 06/5/2016 của Ủy ban nhân dân huyện Y. Để thực hiện việc thanh toán quỹ đất cho Nhà đầu tư theo quy định của hợp đồng, Ủy ban nhân dân huyện Y đã lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi tiết các quỹ đất đối ứng được Ủy ban nhân dân tỉnh B giới thiệu địa điểm. Đồng thời, Ủy ban nhân dân huyện thực hiện đầy đủ các trình tự pháp lý theo quy định để tiến hành thu hồi đất, giải phóng mặt bằng các khu đất đối ứng dự án BT. Nhà đầu tư đã ứng toàn bộ kinh phí cho Hội đồng bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng huyện để thực hiện việc chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho các hộ dân có đất thu hồi theo đúng Quyết định số 28/QĐ-UBND ngày 10/01/2017 về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và Quyết định số 7584/QĐ-UBND ngày 31/12/2017 về việc thu hồi đất và phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên, quá trình chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng cho các hộ dân có đất bị thu hồi thì có 41 hộ dân tại thôn Yên Lãng, xã Y không nhận tiền. Mặc dù phía nhà đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương, tích cực vận động, thuyết phục họ nhận tiền để bàn giao mặt bằng thực hiện dự án nhưng đến nay họ vẫn chưa nhận tiền bồi thường. Do vậy, để đảm bảo tiến độ thực hiện dự án, ngày 28/9/2018 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y đã ban hành Quyết định số 7285/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất nông nghiệp. Nhà đầu tư đã nộp toàn bộ số tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng của 41 hộ có đất thu hồi thôn Yên Lãng vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước huyện Y. Nay ông Vũ Văn N khởi kiện vụ án hành chính thì phía nhà đầu tư đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm có anh San, chị Sáng, chị Xuân đều ủy quyền cho bà Nguyễn Thị N, đều thống nhất với yêu cầu của bà Nguyễn Thị N.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2019/HC-ST ngày 14/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh B đã căn cứ vào Điều 30; Điều 32; Điều 158; điểm a khoản 2 Điều 116; điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Điều 62, khoản 2 Điều 66, Điều 69, Điều 70, Điều 71 Luật đất đai năm 2013; Điều 17 Nghị định số: 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ- CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 552/2014/QĐ-UBND ngày 28/12/2014; Quyết định số 528/2014/QĐ-UBND ngày 22/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh B; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn N về yêu cầu hủy một phần Quyết định số 7285/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y về việc cưỡng chế thu hồi đất nông nghiệp đối với hộ gia đình ông Vũ Văn N và yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Y lập lại phương án bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất nông nghiệp của Gia đình ông N số tiền 2.414.000.000 đồng đối với diện tích 724,2m2 bị thu hồi và bồi thường 150.000.000 đồng đối với số cây ăn quả trên đó.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí sơ thẩm và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/8/2019, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa và các bên đương sự về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm đánh giá và nhận định về vụ án như sau:
[1] Xem xét về đối tượng khởi kiện, thủ tục tố tụng và thời hiệu khởi kiện:
Ngày 28/9/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B ban hành Quyết định số 7285/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất nông nghiệp đối với 60 hộ gia đình thôn Yên Lãng, xã Y do cố tình không nhận tiền bồi thường và không bàn giao đất để giải phóng mặt bằng thực hiện Dự án đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp mở rộng đường trục xã Y, huyện Y, tỉnh B trong đó có gia đình ông Vũ Văn N. Ông Vũ Văn N khởi kiện yêu cầu hủy một phần Quyết định này, đồng thời yêu cầu lập phương án bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi nhận được Quyết định số 7285/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Y, ngày 20/11/2018, ông Vũ Văn N có đơn khởi kiện đến Tòa án trong thời hạn luật định, còn thời hiệu khởi kiện, cho nên theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32 và khoản 2 Điều 116 của Luật tố tụng hành chính, Tòa án nhân dân tỉnh B thụ lý giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị N thay đổi nội dung kháng cáo, từ kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm sang kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận những nội dung mà người khởi kiện đã yêu cầu.
Xét các nội dung kháng cáo của ông Vũ Văn N, bà Nguyễn Thị N, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét từng nội dung kháng cáo và nhận thấy như sau:
Thứ nhất: Ông Vũ Văn N yêu cầu huỷ Quyết định số 7285/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B:
Về nội dung này, ông N cho rằng, việc Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định cưỡng chế số 7285/QĐ-UBND ngày 28/09/2018 là trái với quy định của pháp luật dẫn tới việc ban hành Thông báo số 110/TB-UBND cũng không đúng vì trình tự thủ tục thu hồi đất không đúng, không khảo sát, không kiểm đếm tài sản trên đất, không niêm yết công khai phương án, sau đó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B ra quyết định cưỡng chế không đúng với quy định tại Điều 67 của Luật đất đai.
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Cho đến khi có quyết định cưỡng chế thu hồi đất, trước đó Ủy ban nhân dân huyện Y đã ban hành hàng loạt các quyết định có liên quan như: Quyết định số 696/QĐ-UBND ngày 06/5/2016 về việc Phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư dự án đầu tư xây dựng cải tạo, nâng cấp mở rộng đường trục xã Y, huyện Y, tỉnh B theo hình thức hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT). Sau khi được Ủy ban nhân dân tỉnh B phê duyệt dự án (Quyết định số 721/QĐ-UBND ngày 08/6/2017), ngày 22/7/2016, Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Thông báo số 54/TB-UBND về việc chủ trương thu hồi đất để thực hiện dự án và Kế hoạch số 661/KH-UBND về việc thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm giải phóng mặt bằng; đồng thời ra Quyết định số 1349/QĐ-UBND thành lập Hội đồng bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và Tổ công tác giúp việc.
Sau khi có quyết định của Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B, ngày 13/12/2016, Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng ban hành Phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi nhà nước thu hồi đất và tiến hành niêm yết công khai phương án này. Ngày 10/01/2017, Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định số 28/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Ngày 25/11/2017, Hội đồng bồi thường giải phóng mặt bằng ban hành Phương án điều chỉnh, bổ sung bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. Ngày 31/12/2017, Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định số 7854/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng.
Để thực hiện chủ trương thu hồi đất, tại Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 26/4/2018, Ủy ban nhân dân xã Y thành lập Tổ vận động tuyên truyền thu hồi đất. Sau 03 đợt vận động, đa số các hộ gia đình đã nhận tiền bồi thường để đảm bảo tiến độ thực hiện dự án, song tính đến 26/5/2018 vẫn còn một số hộ gia đình không nhận tiền bồi thường và tỏ thái độ chống đối. Ngày 29/8/2018, Ủy ban nhân dân tỉnh B có văn bản số 333/UBND-TNMT đồng ý cho Ủy ban nhân dân huyện Y cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án. Ngày 28/9/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành Quyết định số 7285/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất nông nghiệp đối với 60 hộ gia đình, trong đó có gia đình ông Vũ Văn N. Quyết định cưỡng chế được Niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân xã Y và Hội trường Nhà văn hóa thôn Yên Lãng và giao cho gia đình ông Vũ Văn N theo đúng quy định của pháp luật.
Như phân tích và diễn giải nêu trên cho thấy, Ủy ban nhân dân huyện Y ban hành các quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng là đã đảm bảo về hình thức văn bản, đúng trình tự thủ tục và nội dung theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương; đúng quy định tại khoản 2 Điều 66 và Điều 69 của Luật đất đai; Điều 17 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, Quyết định số 7285/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y về việc cưỡng chế thu hồi đất và các văn bản có liên quan được ban hành là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Việc ông Vũ Văn N khởi kiện yêu cầu hủy một phần Quyết định số 7285/QĐ-UBND ngày 28/9/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B là không có căn cứ, cho nên Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn N về nội dung này là đúng quy định của pháp luật.
Thứ hai: Về yêu cầu lập lại phương án bồi thường giải phóng mặt bằng:
Theo các Quyết định số 28/QĐ-UBND và Quyết định số 7854/QĐ-UBND nêu trên, gia đình ông Vũ Văn N bị thu hồi 724,2m2 đất nông nghiệp giao lâu dài, tổng số tiền được bồi thường là 317.923.800 đồng. Gia đình ông N không thắc mắc về diện tích thu hồi mà cho rằng giá bồi thường do Ủy ban nhân dân huyện Y áp cho gia đình ông là quá thấp, ông yêu cầu lập phương án bồi thường, hỗ trợ theo mức giá bồi thường là 2.414.000.000 (Hai tỷ bốn trăm mười bốn triệu) đồng đối với diện tích 724,2m2 bị thu hồi và bồi thường 150.000.000 đồng đối với 200 cây bưởi, 50 cây ổi trên đất đang đến thời kỳ thu hoạch.
Về nội dung trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm đồng tình như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm khi cho rằng: Việc thu hồi đất theo Quyết định số 28 và Quyết định số 7854 thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng theo quy định tại Điều 62 của Luật Đất đai nên giá bồi thường, hỗ trợ được áp dụng theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Như vậy, đối chiếu với Bảng tổng hợp phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo các Quyết định số 28/QĐ-UBND và Quyết định số 7854/QĐ-UBND thì mức bồi thường, hỗ trợ đối với Gia đình ông N là 724,2m2 x 439.000đ/1m2 = 317.923.800 đồng là đúng quy định của pháp luật. Việc ông N yêu cầu bồi thường, hỗ trợ theo mức 1.200.000.000 đồng/sào, song không đưa ra được lý do nào thuyết phục, nên yêu cầu hủy quyết định để yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Y, tỉnh B lập lại phương án bồi thường, hỗ trợ là không có căn cứ, cho nên Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn N về nội dung này cũng là đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba: Đối với yêu cầu bồi thường số cây ăn quả trên đất:
Theo nội dung đơn khởi kiện và kháng cáo, ông N yêu cầu bồi thường đối với 200 cây bưởi, 50 cây ổi trồng trên đất đang đến thời kỳ thu hoạch với mức giá là 150.000.000 đồng, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
Theo Bảng tổng hợp phương án bồi thường thì gia đình ông Vũ Văn N được bồi thường tiền hoa màu trên đất là 9.000 đồng/m2 x 724,2m2 = 6.517.800 đồng. Phương án bồi thường này đã được niêm yết công khai, hộ gia đình ông N đã biết và không thắc mắc, khiếu nại gì. Theo tài liệu kiểm đếm tài sản xác định, cây ăn quả (bưởi, ổi) tại thời điểm kiểm đếm được gia đình ông N trồng sau khi đã có thông báo thu hồi đất để thực hiện dự án. Do đó, yêu cầu bồi thường đối với 200 cây bưởi, 50 cây ổi trồng trên đất mà ông N cho rằng đang đến thời kỳ thu hoạch không được chấp nhận là phù hợp.
Tại phiên toà phúc thẩm, người khởi kiện cũng như người bị kiện đều vẫn giữ nguyên nội dung như đơn khởi kiện, theo đó vẫn giữ nguyên quan điểm như quá trình giải quyết vụ án như ở phiên tòa sơ thẩm; các đương sự đều không bổ sung thêm chứng cứ, tài liệu nào mới.
Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa đã phân tích đánh giá toàn diện về vụ án và cho rằng, Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện là đúng quy định của pháp luật, cho nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Tổng hợp những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Vũ Văn N, bà Nguyễn Thị N là có căn cứ, cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên toàn bộ quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
QUYẾT ĐỊNH
1. Bác kháng cáo của bà Nguyễn Thị N, ông Vũ Văn N; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm;
2. Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính phúc thẩm, được đối trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà Nguyễn Thị N đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm số AA/2017/0004567 ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh B;
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về hủy quyết định cưỡng chế thu hồi đất và yêu cầu lập phương án bồi thường, hỗ trợ số 165/2020/HC-PT
Số hiệu: | 165/2020/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 10/07/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về