TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 61/2024/DS-ST NGÀY 21/02/2024 VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN HỢP ĐỒNG CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 21 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 546/2023/TLST-DS ngày 27 tháng 11 năm 2023, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản - hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2024/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 47/2024/QĐST-DS ngày 29 tháng 01 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1958. Nơi cư trú: Số C, ấp B, xã M, Tp ., tỉnh An Giang. Có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Trần Ngọc P - Công ty L1 thuộc đoàn luật sư tỉnh A. Có mặt - Bị đơn:
1. Bà Trương Thị L, sinh năm 1964. Có mặt
2. Ông Dương Hùng D, sinh năm 1964. Vắng mặt Cùng nơi cư trú: số A, Võ Văn H, tổ E, khóm B, phường B, Tp ., tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày trong quá trình giải quyết vụ án:
* Đối với hợp đồng cố đất:
Bà T có nhận cố của bà L 8 công đất ruộng ở huyện T với giá 08 (tám) lượng vàng 24kara loại vàng thị trường. Bà L có dẫn bà xem đất, chỉ cho bà biết vị trí đất nhưng không đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà nên bà không biết đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không và không biết do ai đứng tên giấy chứng nhận. Sau khi thỏa thuận cố đất thì bà L hỏi thuê lại đất do bà nhận cố của chính bà L với giá 2.500.000đ/cồng/năm x 8 công = 20.000.000đ/năm Bà L có trả cho bà tiền thuê đất được 3 năm với số tiền 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng). Năm 2013 bà L có trả 04 (bốn) lượng vàng 24kara loại vàng thị trường; Từ năm 2014 đến nay bà L không trả tiền thuê đất. Khi cố đất không có thỏa đất thời gian cố đất, cũng không thỏa thuận bồi hoàn gì cho nhau sau khi hợp đồng cố đất kết thúc.
Phần đất bà L cố cho bà, bà không biết đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa, tờ bản đồ số mấy, thửa đất bao nhiêu, diện tích thế nào, ngày cấp ra sao và cũng không biết ai đứng tên. Khi cố đất, bà với bà L chỉ nói miệng với nhau không làm giấy tờ, khi giao nhận số vàng 08 (tám) lượng, các bên cũng không làm giấy tờ. Từ khi nhận cố đất với bà L thì vợ chồng bà L, ông D vẫn là người quản lý sử dụng đất, bà chưa bao giờ quản lý hay canh tác đất cố nên đất vẫn do ông D, bà L quản lý sử dụng.
Khi thỏa thuận cố đất, bà trao đổi thỏa thuận với bà L nhưng khi đi xem đất thì có mặt cả hai vợ chồng ông D, bà L. Bà giao vàng cho bà L tại nhà bà, khi đó không có ai khác và không có ông D. Việc giao nhận vàng không làm giấy tờ. Khi trả 04 (bốn) lượng vàng thì bà L đem vàng đến nhà bà trả, không có mặt ông D. Nhưng ông D có biết sự việc và họ là vợ chồng với nhau, ông D có nói chuyện với bà là sẽ từ từ trả.
Nay bà yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng cố đất là vô hiệu và buộc vợ chồng ông D bà L cùng có nghĩa vụ liên đới trả lại cho bà 0 (bốn) lượng vàng 24kara loại vàng thị trường.
* Hợp đồng vay tài sản:
Bà có cho bà L mượn tiền nhiều lần do có từng chơi hụi với nhau nhiều năm. Đến năm 2016, bà và bà L ông D cùng kết sổ lại còn nợ bà số tiền 775.000.000đ (bảy trăm bảy mươi lăm triệu đồng). Sau đó bà L, ông D trả cho bà được số tiền là 134.000.000đ (một trăm ba mươi bốn triệu đồng). Khi mượn tiền giữa bà và bà L hoàn toàn không thỏa thuận lãi suất, bà L không trả cho bất kỳ khoản tiền lãi nào. Đến ngày 02/11/2022, ông D và bà L trả cho bà được số tiền 134.000.000đ (một trăm ba mươi bốn triệu đồng) còn nợ bà 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng). Do đó nay bà yêu cầu ông D, bà L có nghĩa vụ trả cho bà số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng).
Việc cho mượn tiền và trả tiền đều không có mặt ông D mà do bà và bà L tự thỏa thuận thực hiện với nhau, mượn và trả nhiều lần nên bà chỉ ghi vào sổ theo dõi với tên là “chị 5 S” (do tên bên ngoài của ông D là 5 S), sau mới kết sổ và có biên nhận. Do khi viết biên nhận không có mặt ông D nên không cho ông D ký tên vào biên nhận.
Nay bà yêu cầu: Tòa án tuyên bố hợp đồng cố đất là vô hiệu và buộc vợ chồng ông D, bà L cùng có nghĩa vụ liên đới trả lại cho bà 4 (bốn) lượng vàng 24kara loại vàng thị trường. Bà yêu cầu ông D, bà L có nghĩa vụ trả cho bà số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng).
Bà xác định bà L cố đất 08 (tám) lượng vàng 24kara và chỉ mới trả có 04 (bốn) lượng vẫn còn nợ lại 04 (bốn) lượng vàng 24kara, việc cố đất có ghi sổ theo dõi, trong đó ghi rõ là tiền lúa hàng năm. Đến ngày 02/11/2022, bà L có ký xác nhận nợ cho bà, trong đó có xác nhận còn nợ 04 (bốn) lượng vàng 24kara và số tiền nợ 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng). Bà L đã hứa hẹn nhiều lần nhưng vẫn không thực hiện nên nay bà vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Án phí dân sự: theo quy định pháp luật.
- Bị đơn bà Trương Thị L trình bày trong quá trình giải quyết án:
Bà và bà T có quen biết và làm ăn qua lại với nhau từ nhiều năm trước. Trong thời gian qua lại với nhau thì bà có hỏi vay tiền bà T nhiều lần cũng như nhiều lần nợ tiền hụi, việc chơi hụi và vay tiền không có làm giấy tờ với nhau, bà T tự làm sổ theo dõi tiền nợ, bà không có giữ bất kỳ giấy tờ nào về việc tiền nợ, tiền hụi.
Sau này, bà có hỏi mượn của bà T 04 (bốn) lượng vàng 24kara, tiền lãi đóng 10.000.000đ/năm, tiền lãi này tính như sau, do khi đó bà mượn vàng này để mua đất nên bà có nói tính tiền lãi bằng như tiền thuê đất tương đương 10.000.000đ/năm. Bà đã trả cho bà T 04 lượng vàng 24kara nhưng bà không nhớ thời gian trả và khi trả không có biên nhận với nhau. Giữa bà và bà T không có việc cố đất hay thuê đất mà bà chỉ có mượn 4 lượng vàng 24kara, khi đó bà có nói xem như đưa vàng cố đất và tiền lãi bằng với tiền thuê đất.
Bà xác định bà có ký tên vào giấy xác nhận nợ ngày 02/11/2022 và xác nhận trả 134.000.000đ (một trăm ba mươi bốn triệu đồng) ngày 02/11/2022, tuy nhiên bà T là người viết các giấy xác nhận này, do bà không nhớ được tổng số tiền vay vốn lãi là bao nhiêu và do tin tưởng nên bà đồng ý ký tên vào giấy xác nhận.
Việc mượn 04 (bốn) lượng vàng là để mua đất ở T, vợ chồng cùng đứng tên nhưng nay do thiếu nợ nhiều nên nay đã bán đất trả nợ. Tiền vay và tiền nợ hụi cũng là để gia đình làm ăn và xoay xở trong gia đình.
Chồng bà - ông D có biết việc bà và bà T chơi hụi qua lại và bà có vay tiền và nợ tiền hụi và mượn vàng của bà T nhưng chồng bà không biết cụ thể là bao nhiêu. Nay chồng bà đã biết sự việc và biết việc bị kiện và ông D đồng ý cùng trả nợ với bà nhưng hiện ông đi làm ở Hậu Giang nên không tham gia làm việc theo giấy mời của Tòa án.
Nay với yêu cầu khởi kiện của bà T thì bà và ông D đồng ý cùng chịu trách nhiệm đi làm trả số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng), nhưng bà không đồng ý trả số vàng 04 lượng vàng 24kara do bà đã trả đủ cho bà T.
Án phí dân sự: theo quy định pháp luật.
- Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Dương Hùng D vắng mặt không tham gia phiên họp và không gửi tự khai trình bày ý kiến do đó không ghi nhận được ý kiến của của ông D.
- Tại phiên tòa:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: ông D và bà L tuy không đăng ký kết hôn nhung ông bà chung sống với nhau như vợ chồng từ trước năm 1986, có con chung sinh năm 1985 và hiện nay vẫn còn chung sống với nhau, do đó hôn nhân của ông bà là hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận. Tại phiên tòa hôm nay, bà L cũng thừa nhận số tiền, vàng nhận từ bà T bà sử dụng vào sinh hoạt, công việc làm ăn chung và những nhu cầu thiết yếu trong gia đình. Ông D biết, đồng ý việc vay mượn tiền, vàng và nay ông D cũng đồng ý cùng có nghĩa vụ trả nợ cho bà T. Do đó, căn cứ vào giấy xác nhận nợ ngày 02/11/2022 và lời trình bày của bà T, bà L có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà T, buộc ông D, bà L cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho bà T số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng) và 04 lượng vàng 24kara. Đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất nay bà T rút lại, do đó đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện này.
- Nguyên đơn trình bày: thống nhất lời trình bày của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bà xác định rút lại yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất, giữ yêu cầu khởi kiện buộc ông D, bà L cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng) và 04 lượng vàng 24kara.
- Bị đơn bà L trình bày: bà thừa nhận còn nợ bà T số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng) và đồng ý trả cho bà T số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng). Riêng đối với 04 lượng vàng 24kara thì bà đã trả nhưng do không có chứng cứ chứng minh nên nay bà đồng ý xét xử theo quy định pháp luật. Ông D chồng bà có biết việc nợ bà T và đồng ý cùng bà chịu trách nhiệm trả nợ cho bà T nhưng nay kinh tế khó khăn nên xin được trả dần.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn, bà L đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông D đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, không tham gia phiên hòa giải, công khai chứng cứ, không trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về nội dung giải quyết vụ án: đề nghị đình chỉ yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, buộc ông D, bà L cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho bà T số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng) và 04 lượng vàng 24kara.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Bà Nguyễn Thị Ngọc T khởi kiện về hợp đồng vay tài sản, hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất đối với ông D, bà L có địa chỉ cư trú tại thành phố L nên Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông D đã được triệu tập hợp lệ nhưng ông D vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần thứ hai nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông D là phù hợp với quy định pháp luật tại Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung giải quyết vụ án:
[2.1] Bà T khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất là vô hiệu và buộc vợ chồng ông D bà L cùng có nghĩa vụ liên đới trả lại cho bà 04 lượng vàng 24kara loại vàng thị trường và số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng). Theo đó, bà L thừa nhận có ký tên vào giấy xác nhận nợ ngày 02/11/2022 và đồng ý cùng ông D có nghĩa vụ trả cho bà T số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng), riêng số vàng 04 lượng vàng 24kara thì bà không đồng ý.
[2.2] Đối với yêu cầu về số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng) thì bà L đã thừa nhận và đồng ý có nghĩa vụ trả cho bà T do đó căn cứ Điều 92 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 đây là tình tiết không cần phải chứng minh. Nay bà T khởi kiện và bà L đồng ý, do đó căn cứ Điều 166 và Điều 466 Bộ luật Dân sự 2015, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, buộc bà L có nghĩa vụ trả cho bà T số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng).
[2.3] Tại phiên tòa, bà T rút lại yêu cầu khởi kiện về việc tuyên bố vô hiệu hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất, việc rút lại một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện và phù hợp với quy định pháp luật, do đó căn cứ Điều 217, Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đình chỉ yêu cầu khởi kiện về việc tuyên bố vô hiệu hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất.
[2.4] Đối với yêu cầu về 04 (bốn) lượng vàng 24kara, bà L cho rằng đã trả tuy nhiên bà không cung cấp chứng cứ chứng minh và không được sự thừa nhận của bà T. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào giấy xác nhận nợ ngày 02/11/2022, xét thấy có đủ cơ sở để xác định bà L còn nợ bà T 04 (bốn) lượng vàng 24kara là có thật, căn cứ Điều 166 Bộ luật Dân sự 2015 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, buộc bà L có nghĩa vụ trả cho bà T 04 (bốn) lượng vàng 24kara.
[2.5] Về nghĩa vụ liên đới của ông D, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án đã thực hiện, cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông D để ông thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình cũng như trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện và chứng cứ của nguyên đơn. Nhưng ông D vắng mặt không tham gia phiên họp, hòa giải, xét xử và không gửi văn bản trình bày ý kiến, xem như ông tự từ bỏ quyền lợi của bản thân cũng như không bác bỏ yêu cầu khởi kiện và chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Tại phiên tòa và trong quá trình giải quyết vụ án (biên bản không hòa giải được ngày 12/01/2024) bà L xác định sử dụng nguồn tiền, vàng vào sinh hoạt gia đình, công việc kinh tế chung cũng như tạo lập tài sản chung cũng như ông D biết và đồng ý cùng bà trả nợ cho bà T. Xét thấy, ông D và bà L là vợ chồng theo quy định pháp luật, ông bà làm kinh tế chung, sử dụng chung nguồn thu chi và đây là tài sản lớn, do đó căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, buộc ông D cùng có nghĩa vụ liên đới với bà L trong việc trả cho bà T số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng) và 04 lượng vàng 24kara.
[2.6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của bà T được chấp nhận nên bà T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bà L và ông D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 5, Điều 26, Điều 35, Điều 92, Điều 147, Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 244, Điều 266, Điều 273 và Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Căn cứ vào Điều 166, Điều 466 Bộ luật dân sự 2015;
- Căn cứ vào Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T. Buộc ông Dương Hùng D và bà Trương Thị L cùng có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc T số tiền 641.000.000đ (sáu trăm bốn mươi mốt triệu đồng) và 04 (bốn) lượng vàng 24kara vàng thị trường.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Dương Hùng D và bà Trương Thị L phải chịu 38.850.000đ (ba mươi tám triệu, tám trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Bà Nguyễn Thị Ngọc T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị Ngọc T, bà Trương Thị L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Dương Hùng D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về hợp đồng vay tài sản hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất số 61/2024/DS-ST
Số hiệu: | 61/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về