Bản án về hợp đồng mua bán hàng hóa số 96/2024/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 96/2024/KDTM-ST NGÀY 16/09/2024 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 16 tháng 9 năm 2024 tại phòng xử án của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý 43/2024/TLST-KDTM ngày 15 tháng 4 năm 2024 về: “Hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 405/2024/QĐXX ngày 26 tháng 7 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 393/2024/QĐ-HPT ngày 19 tháng 8 năm 2024 giữa:

Nguyên đơn: Công ty TNHH giấy bao bì P; Địa chỉ: đường ĐT745, khu phố Khánh Lộc, phường Khánh Bình, thành phố Tân Uyên, tỉnh D.

Người đại diện theo ủy quyền:

1. Bà Võ Thị Oanh K, sinh năm 1991; Địa chỉ: Số A khu phố Bình B, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh D;

2. Bà Bàng N, sinh năm 1976; Địa chỉ: Số M Lò N, Phường 8, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt) Bị đơn: Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P; Địa chỉ: Số 158/1A Quang Trung, Phường 11, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Viễn T, sinh năm 1976; Địa chỉ: Số I 16/9 K, phường 9, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/4/2024, bản tự khai và quá trình giải quyết tại Tòa án, nguyên đơn và đại diện ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Từ tháng 5/2023 Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P đã đặt hàng và có thỏa thuận mua bán hàng hóa theo hợp đồng mua bán số 45/2023/HĐMB ngày 20/5/2023. Công ty TNHH giấy bao bì P đã cung cấp hàng hóa là (bao bì) cho Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P. Theo thỏa thuận, công ty TNHH Xuất nhập khẩu P nhận được hàng hóa thì Công ty TNHH giấy bao bì P sẽ xuất hóa đơn GTGT dựa trên bảng đối chiếu công nợ chi tiết mà bên bán báo cho bên mua. Đến tháng 1 năm 2024, công ty TNHH giấy bao bì P đã giao hàng nhiều đợt cho công ty TNHH Xuất nhập khẩu P. Khi giao hàng cho công ty TNHH Xuất nhập khẩu P, công ty TNHH giấy bao bì P đều lập phiếu giao hàng, phiếu đối chiếu Công nợ và có ký xác nhận nhận hàng của Công ty P. Công ty TNHH giấy bao bì P đã xuất hóa đơn tài chính số 85 ngày 29/01/2024 (giao các chứng từ liên quan) như thỏa thuận của hai bên cũng như quy định tại điều 34 của Luật Thương mại năm 2005. Tuy nhiên sau khi nhận hàng, phía Công ty P đã không thanh toán đúng hạn cho công ty P. Tổng số tiền hàng Công ty P chưa thanh toán cho Công ty P là 42.327.514 đồng (Bốn mươi hai triệu, ba trăm hai mươi bảy nghìn, năm trăm mười bốn đồng). Công ty P đã nhiều lần hối thúc trả nợ nhưng phía công ty P và người đại diện của công ty P trì hoãn, không thanh toán, chiếm dụng vốn của công ty P. Công ty TNHH giấy bao bì P yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P phải thanh toán một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật số tiền nợ gốc 42.327.514 đồng (Bốn mươi hai triệu, ba trăm hai mươi bảy nghìn, năm trăm mười bốn đồng) và lãi suất chậm thanh toán 0.75%/tháng tính theo lãi nợ quá hạn trung bình của 03 ngân hàng thương mại nguyên đơn tạm tính mứng lãi suất bình quận của ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, Agribank tính từ ngày hết hạn thanh toán 29/01/2024 đến ngày xét xử 16/9/2024. Tuy nhiên ngày 19/8/2024 Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P có trả cho Công ty TNHH giấy bao bì P 5.000.000 đồng, như vậy số nợ gốc đã giảm đi, nợ lãi tính đến ngày 16/9/2024 là 2.409.414 đồng. Tổng cộng cả nợ gốc và lãi tạm tính đến ngày 16/9/2024 là 39.736.923 đồng.

Ngoài những yêu cầu trên, nguyên đơn không còn yêu cầu nào khác.

Bị đơn đã được Tòa án tống đạt niêm yết hợp lệ để đến Tòa ghi bản tự khai, tham dự phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng vẫn vắng mặt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp;

Về tố tụng:

Giám sát quá trình giải quyết vụ án dân sự giữa Công ty TNHH giấy bao bì P với Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P nhận thấy: Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, về thẩm quyền thụ lý, xác định tư cách người tham gia tố tụng, xác minh thu thập chứng cứ, trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát và cho đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử, tại phiên tòa đảm bảo trình tự xét xử vụ án, đảm bảo quyền lợi cho các bên khi tranh tụng, đúng pháp luật tố tụng.

Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn chưa thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung:

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về án phí: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

{ Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên Tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

Về tố tụng:

[1] Công ty TNHH giấy bao bì P khởi kiện Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P về mua bán hàng hóa. Căn cứ vào Giấy chứng nhận Đăng ký Doanh nghiệp mã số doanh nghiệp: 031145xxx do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh cấp Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P có trụ sở chính tại địa chỉ: Số 158/1A đường Quang Trung, Phường 11, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp theo khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Tòa án đã triệu tập người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng với thủ tục được quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung:

[3] Căn cứ trình bày của đại diện nguyên đơn trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án: Căn cứ Hợp đồng mua bán số 45/2023/HĐMB ngày 20/5/2023, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P đã đặt hàng và hai bên đã có hoạt động về mua bán hàng hóa. Công ty TNHH giấy bao bì P đã cung cấp hàng hóa là (bao bì) cho Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P. Theo thỏa thuận, công ty P nhận được hàng hóa thì Công ty P sẽ xuất hóa đơn GTGT dựa trên bảng đối chiếu công nợ chi tiết mà bên bán báo cho bên mua. Đến tháng 1 năm 2023, công ty P đã giao hàng nhiều đợt cho công ty P. Khi giao hàng cho công ty P, công ty P đều lập phiếu giao hàng, phiếu đối chiếu Công nợ và có xác nhận hàng của Công ty P. Công ty TNHH giấy bao bì P đã xuất hóa đơn tài chính số 85 ngày 29/01/2024 (giao các chứng từ liên quan) như thỏa thuận của hai bên cũng như quy định tại điều 34 của Luật Thương mại năm 2005. Tuy nhiên sau khi nhận hàng, phía Công ty P không thanh toán đúng hạn cho công ty P. Tổng số tiền hàng Công ty P chưa thanh toán cho Công ty P là 42.327.514 đồng (Bốn mươi hai triệu, ba trăm hai mươi bảy nghìn, năm trăm mười bốn đồng). Công ty P đã nhiều lần hối thúc trả nợ nhưng phía công ty P và người đại diện của công ty P trì hoãn, không thanh toán. Nay Công ty TNHH giấy bao bì P khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P thanh toán một lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật, số tiền gốc là 42.327.514 đồng (Bốn mươi hai triệu, ba trăm hai mươi bảy nghìn, năm trăm mười bốn đồng) và lãi suất chậm thanh toán 0.75%/tháng lãi nợ quá hạn trung bình của 03 ngân hàng tạm sử dụng mức lãi suất của ngân hàng Vietcombank, Vietinbank, Agribank. Tính từ ngày 29/01/2024 đến ngày 19/8/2024 tiền lãi là 2.148.121 đồng. Ngày 19/8/2024 công ty P đã thanh toán 5.000.000 đồng tiền gốc cho công ty P. Từ ngày 20/8/2024 đến ngày 16/9/2024 tiền lãi là 261.293 đồng. Vậy tính đến ngày 16/9/2024, tổng số tiền công ty TNHH Xuất nhập khẩu P còn phải thanh toán cho công ty TNHH giấy bao bì P cả gốc và lãi là 39.736.928 đồng, trong đó tiền gốc phải trả là 37.327.514 đồng và tiền lãi tính đến ngày 16/9/2024 là 2.409.414 đồng, Công ty TNHH giấy bao bì P yêu cầu Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P thanh toán một lần ngay khi bản án của Tòa có hiệu lực. Tòa án đã tiến hành thu thập thông tin lãi suất của 3 ngân hàng Viettinbank, Eximbank, Agribank bình quân lãi suất nợ quá hạn của 3 ngân hàng là trên 12% một năm, nhưng nguyên đơn chỉ yêu cầu tính lãi suất 0,75% tháng là thấp hơn mức lãi quá hạn bình quân của 3 ngân hàng, đo đó yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn có cơ sở chấp nhận thero quy định tại Điều 306 Luật thương mại năm 2005 (Sửa đổi bổ sung năm năm 2019). Như vậy giữa Công ty TNHH giấy bao bì P Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P có giao kết hợp đồng theo quy định tại Điều 24, khoản 1 Điều 85 Luật thương mại năm 2005 (Sửa đổi bổ sung năm năm 2019). Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của nguyên đơn có cơ sở nên chấp nhận.

[4] Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm.

Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Nguyên đơn không phải chịu án phí, được hoàn lại án phí đã đóng tạm nộp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 24; Khoản 1 Điều 85; Điều 306 Luật thương mại năm 2005 (Sửa đổi bổ sung năm năm 2019);

- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014);

- Luật án phí lệ phí 2015;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

- Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH giấy bao bì P với bị đơn Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P.

Buộc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P phải có trách nhiệm thanh toán một lần, ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật cho Công ty TNHH giấy bao bì P số tiền 39.736.928 đồng, trong đó tiền gốc phải trả là 37.327.514 đồng và tiền lãi tạm tính đến ngày 16/9/2024 là 2.409.414 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm là ngày 17/9/2024 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí:

Công ty TNHH Xuất nhập khẩu P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.000.000 đồng.

Công ty TNHH giấy bao bì P được hoàn lại số tiền 3.000.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0013133 ngày 15/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp.

Thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 30 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được tống đạt, niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về hợp đồng mua bán hàng hóa số 96/2024/KDTM-ST

Số hiệu:96/2024/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:16/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về