Bản án về hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2023/KDTM-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐNG THÁP

BẢN ÁN 01/2023/KDTM-ST NGÀY 13/04/2023 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 13 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2023/TLST-KDTM, ngày 03 tháng 01 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2023/QĐXXST-DS, ngày 14 tháng 3 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 80/2023/QĐST-DS, ngày 24 tháng 3 năm 2023 giũa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty Cổ phần X.

Địa chỉ: Quốc lộ C, ấp A, xã A, huyện C, Đồng Tháp.

Người đại diện hợp pháp của Công ty Cổ phần X: Bà Nguyễn Thị Thúy A, Chức vụ: Kế toán; Địa chỉ: số E, tổ B, ấp H, xã H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 01/3/2023) (có mặt).

Bị đơn: Công ty TNHH X.

Địa chỉ: số F, đường X, phường B, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của Công ty TNHH X: Bà Trịnh Phương T, sinh năm 1983; Địa chỉ: số D đường N, phường I, quận P, thành phố Hồ Chí Minh, là người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 12/4/2023) (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện ngày 22/11/2022, tại phiên hòa giải và tại phiên tòa, Công ty Cổ phần X là nguyên đơn, có bà Nguyễn Thị Thúy A là người đại diện hợp pháp trình bày:

Ngày 29/10/2018, Công ty Cổ phần X (gọi tắt là Công ty X) có cung cấp và bơm bê tông tươi cho Công ty TNHH X (gọi tắt là Công ty X) để thi công công trình Bệnh viện Q tại TP ., tỉnh Đồng Tháp. Giữa hai công ty đã ký Hợp đồng kinh tế số 18/2018/HĐKT-MK-HAK ngày 29/10/2018.

Sau khi thực hiện hợp đồng thì hai bên có xác nhận công nợ vào ngày 30/3/2020, theo đó Công ty X còn nợ Công ty X số tiền 252.105.000 đồng. Công ty X đã liên hệ nhắc nhở nhiều lần nhưng đến nay Công ty X không thanh toán.

Nay Công ty X yêu cầu Công ty X trả số tiền còn nợ là 252.105.000 đồng và tiền lãi, mức lãi suất 0,83%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày 30/3/2020 đến ngày 13/4/2023 là 36 tháng 13 ngày, số tiền lãi làm tròn là 76.228.000 đồng, tổng cộng vốn và lãi là 328.333.000 đồng.

Tại phiên hòa giải và tại phiên tòa, Công ty TNHH X là bị đơn, có bà Trịnh Phương T là người đại diện hợp pháp trình bày:

Bà T đại diện cho Công ty X thống nhất lời trình bày của phía Công ty X về quá trình ký kết, thực hiện hợp đồng và số tiền còn nợ đến ngày 30/3/2020 là 252.105.000 đồng. Nay Công ty Hoàng Anh K đồng ý trả số tiền còn nợ là 252.105.000 đồng.

Đối với tiền lãi thì bà T thống nhất mức lãi suất thỏa thuận là 0,83%/tháng, thống nhất thời gian tính lãi kể từ ngày 30/3/2020. Việc nguyên đơn yêu cầu trả số tiền lãi đến ngày 14/3/2023 được làm tròn là 76.228.000 đồng là đúng. Tuy nhiên, do hiện nay Công ty X gặp khó khăn về tài chính, do chủ đầu tư của dự án Bệnh viện Q tại TP . (nay là Công ty TNHX Bệnh viện X) chưa thanh toán hợp đồng. Đồng thời nội bộ Công ty X đang sắp xếp lại nhân sự, cụ thể là người đại diện theo pháp luật nên chưa đưa ra được ý kiến đối với yêu cầu trả tiền lãi của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng:

[1] Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện của Công ty X là nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp là về hợp đồng mua bán hàng hóa, các đương sự thống nhất lựa chọn Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh là nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh theo quy định tại khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; điểm b, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung:

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty X về việc yêu cầu Công ty X trả số tiền còn nợ là 252.105.000 đồng và tiền lãi, mức lãi suất 0,83%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày 30/3/2020 đến ngày 13/4/2023 là 36 tháng 13 ngày, số tiền lãi làm tròn là 76.228.000 đồng, tổng cộng vốn và lãi là 328.333.000 đồng.

Xét thấy:

[3] Đối với yêu cầu trả số tiền còn nợ: Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã thống nhất được ngày 29/10/2018, giữa Công ty X và Công ty X đã thỏa thuận được và ký kết Hợp đồng kinh tế số 18/2018/HĐKT-MK-HAK ngày 29/10/2018. Theo đó, Công ty X là bên bán cung cấp và bơm bê tông tươi cho Công ty X là bên mua để Công ty X thi công công trình Bệnh viện Q tại TP ., tỉnh Đồng Tháp. Sau khi kết thúc hợp đồng thì vào ngày 30/3/2020, hai bên xác nhận công nợ, kết quả Công ty X còn nợ Công ty X số tiền 252.105.000 đồng. Nay Công ty X đồng ý trả cho Công ty X số tiền 252.105.000 đồng. Xét thấy thỏa thuận về trả số tiền còn nợ là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự công nhận sự thỏa thuận của đương sự.

[4] Đối với yêu cầu trả tiền lãi: Công ty X yêu cầu Công ty X trả tiền lãi đối với số tiền còn nợ chưa thanh toán là 252.105.000 đồng, mức lãi suất 0,83%/tháng, thời gian tính lãi từ ngày xác nhận công nợ 30/3/2020 đến ngày xét xử sơ thẩm là 13/4/2023, số tiền lãi là 76.228.000 đồng và yêu cầu tiếp tục tính lãi do chậm thi hành án cho đến khi trả xong nợ. Bị đơn là Công ty X thống nhất việc nguyên đơn yêu cầu tính lãi là đúng, mức lãi suất 0,83%/tháng là phù hợp thỏa thuận của hai bên, thời gian tính lãi từ ngày 30/3/2020 là đúng. Tuy nhiên, tại phiên hòa giải, anh Trần Nguyễn Quốc B người đại diện theo pháp luật của Công ty X không đồng ý trả tiền lãi do tình hình tài chính của công ty gặp khó khăn. Tại phiên tòa, bà Trịnh Phương T là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn xác định chưa đưa ra được ý kiến về yêu cầu trả tiền lãi và đề nghị đưa Công ty TNHH X tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Lý do yêu cầu là vì Công ty X mua bê tông tươi của Công ty X để thi công công trình Bệnh viện Q do Công ty TNHH X làm chủ đầu tư nhưng đến nay chưa được thanh toán hợp đồng thi công. Hội đồng xét xử xét thấy, tại phiên tòa phía bị đơn xác định các hợp đồng giữa Công ty X và Công ty X về mua bán hàng hóa, giữa Công ty X và Công ty TNHH X về thi công là độc lập, giữa các bên trong mỗi hợp đồng có quyền, nghĩa vụ riêng biệt nhau. Hiện nay Công ty X đang thực hiện thủ tục khởi kiện Công ty TNHX Bệnh viện X tại Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự để giải quyết hợp đồng thi công. Khi làm đơn khởi kiện thì không đưa Công ty X tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án mà chỉ trình bày trong nội dung đơn. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét thấy việc giải quyết vụ án này không ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của Công ty TNHH X, việc Công ty TNHH X chậm thanh toán cho Công ty X chỉ ảnh hưởng đến khả năng tài chính của bị đơn. Do đó, Hội đồng xét xử không đưa Công ty TNHX Bệnh viện X vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, về nghĩa vụ trả tiền lãi thì phía bị đơn xác định yêu cầu trả lãi của nguyên đơn là đúng. Bên cạnh đó lại xác định giữa các bên không có thỏa thuận miễn trả lãi do chậm thanh toán cũng như không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh giữa 03 công ty có thỏa thuận trường hợp khi Công ty X yêu cầu trả tiền lãi mà Công ty TNHX Bệnh viện X chưa thanh toán hợp đồng thi công thì Công ty X không phải trả tiền lãi. Do vậy, nay Công ty X yêu cầu trả tiền lãi là phù hợp quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015 nên chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Công ty X, Công ty X phải trả số tiền tổng cộng 328.333.000 đồng nên Công ty X phải chịu án phí là 16.417.000 đồng. Công ty X không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 30, 35, 39, 147, 246 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 24, 50 Luật Thương mại năm 2005;

- Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016.

1. Công nhận sự thỏa thuận giữa Công ty Cổ phần X và Công ty TNHH X về việc Công ty TNHH X có trách nhiệm trả cho Công ty Cổ phần X số tiền 252.105.000 đồng (Hai trăm năm mươi hai triệu một trăm lẻ năm nghìn đồng).

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần X. Buộc Công ty TNHH X trả cho Công ty Cổ phần X số tiền lãi là 76.228.000 đồng (Bảy mươi sáu triệu hai trăm hai mươi tám nghìn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty TNHH X phải chịu số tiền 16.417.000 đồng (Mười sáu triệu bốn trăm mười bảy nghìn đồng).

Trả lại cho Công ty Cổ phần X số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 7.988.000 đồng (Bảy triệu chín trăm tám mươi tám nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014962, ngày 29 tháng 12 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2023/KDTM-ST

Số hiệu:01/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành:13/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về