Bản án về đòi lại quyền sử dụng đất khi hết thời hạn hoán đổi đất số 339/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 339/2023/DS-PT NGÀY 14/06/2023 VỀ ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT KHI HẾT THỜI HẠN HOÁN ĐỔI ĐẤT

Ngày 14 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 692/2022/TLDS- PT ngày 29 tháng 12 năm 2022 về việc “Đòi lại quyền sử dụng đất khi hết thời hạn hoán đổi đất; Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Yêu cầu tính công sức cải tạo đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1156/2023/QĐ-PT ngày 12/4/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lưu Mỹ C, sinh năm 1974 (có mặt); Địa chỉ: Khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lê Tấn H, sinh năm 1962 (có mặt);

Địa chỉ: Số A N, Khu phố G, phường T, thành phố P - T, tỉnh Ninh Thuận. 2. Bị đơn: Bà Lê Thị A, sinh năm 1973 (có mặt);

Địa chỉ: Khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Trần Đăng K, sinh năm 1988 (có mặt);

Địa chỉ: Thôn Q, xã P, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.

3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Vạn Ngọc K1, sinh năm 1967 (có mặt);

3.2. Anh Lưu Phú W, sinh năm 1994 (vắng mặt);

3.3. Anh Vạn Trung K2, sinh năm 2003 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Người đại diện theo ủy quyền của ông K1, anh W, anh K2: Ông Lê Tấn H, sinh năm 1962 (có mặt);

Địa chỉ: Số A N, Khu phố G, phường T, thành phố P - T, tỉnh Ninh Thuận. 3.4. Chị Nguyễn Xuân N, sinh năm 1991 (vắng mặt);

Địa chỉ: Khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn H1, sinh năm 1974 (có mặt); Địa chỉ: 1 D, Phường B, Quận H, TP .

3.5. Chị Nguyễn Thị Xuân H2, sinh năm 1997 (có mặt); Địa chỉ: Khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Địa chỉ tạm trú: Số A đường P, phường C, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

3.6. Vợ chồng ông Trương Thanh T, sinh năm 1978; Bà Thạch Thị Phương T1 (vắng mặt);

Địa chỉ: Khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

3.7. Bà Lưu Mỹ Ý, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

3.8. Ủy ban nhân dân huyện N; Địa chỉ: Số B đường N, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tăng T2 – Chức vụ: Phó Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N (vắng mặt).

4. Người kháng cáo: Nguyên đơn là bà Lưu Mỹ C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thửa đất số 518, tờ bản đồ số 03, diện tích 1160m2 (nay là thửa số 926, tờ bản đồ số 21, diện tích 1148m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), tọa lạc tại khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận là tài sản của hộ gia đình bà Lưu Mỹ C, do hợp tác xã Mỹ N1 giao cho gia đình bà C vào năm 1993 đến năm 1994 được UBND huyện N cấp GCNQSDĐ gồm các thành viên: Ông Vạn Ngọc K1 (chồng), bà Lưu Mỹ C (vợ) cùng hai người con là Lưu Phú W và Vạn Trung K2. Sau khi được hợp tác xã giao đất, hộ gia đình bà C canh tác từ năm 1993 đến năm 1995. Năm 1996, hộ bà C hoán đổi đất với vợ chồng ông Nguyễn Văn T3, bà Lê Thị A, hai bên thỏa thuận: Vợ chồng bà C canh tác thửa ruộng của vợ chồng ông T3 bà A tại khu vực ruộng Tàlo diện tích 1000m2 toạ lạc tại thôn M, thị trấn P, huyện N; Vợ chồng ông T3 bà A canh tác thửa ruộng của vợ chồng bà C tại thửa đất số 518, tờ bản đồ 03 (nay là thửa số 926, tờ bản đồ số 21) diện tích 1160m2 tọa lạc tại khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Hai bên hoán đổi đất chỉ làm giấy viết tay mỗi bên giữ một bản, thời hạn hoán đổi là 20 năm (từ năm 1996 đến năm 2016), lúc đó có ông Ngư Thanh H3 là chủ nhiệm hợp tác xã N3 có đóng dấu ký tên xác nhận. Bà C đã làm thất lạc tờ giấy đó.

Năm 2016, sau khi hết thời hạn hoán đổi 20 năm, vợ chồng bà Lưu Mỹ C qua trao đổi với vợ chồng ông Nguyễn Văn T3 bà Lê Thị A để đổi lại đất nhưng ông T3, bà A không đồng ý. Thời điểm đó bà C đã trả lại phần ruộng khu vực Tàlo cho ông T3, hiện nay thửa đất này bỏ hoang không sản xuất.

Năm 2018, bà C làm đơn yêu cầu UBND thị trấn P hòa giải tranh chấp đất đai thì được biết ngày 10/11/2013 UBND huyện N đã cấp GCNQSDĐ mã số S 014114 cho ông Nguyễn Văn T3 với diện tích 1148m2 thửa đất 926 tờ bản đồ số 21 thị trấn P. Tuy nhiên, đây là thửa đất bà C đã được UBND huyện N cấp GCNQSDĐ vào năm 1994, vẫn còn tồn tại nhưng UBND huyện N lại tiếp tục cấp cho hộ ông T3 là không phù hợp với quy định của Luật đất đai. Đồng thời GCNQSDĐ bà Lưu Mỹ C còn đang giữ và đã được gia hạn vào ngày 29/9/2016, tiếp tục sử dụng đến năm 2064. Do đó, bà Lưu Mỹ C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Buộc bà Lê Thị A trả lại thửa đất số 518 (nay là thửa số 926) tờ bản đồ số 03 (nay là tờ bản đồ số 21) diện tích 1160m2 tọa lạc tại khu phố M, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận; - Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 014114 do UBND huyện N cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3 ngày 10/11/2003.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn - ông Trần Đăng K trình bày:

Thửa đất gia đình bà Lê Thị A đang sử dụng có nguồn gốc từ năm 1996 Hợp tác xã N3 (HTX) giao cho ông Nguyễn Văn T3 (chồng bà A) để cải tạo, phục hóa và canh tác, có xác nhận của Hợp tác xã. Nguồn gốc đất do HTX cấp cho hộ gia đình bà Lưu Mỹ C nhưng gia đình bà C không canh tác, bỏ hoang, đất trũng, xấu và canh tác rất khó khăn. Ông Nguyễn Văn T3 có đơn xin phục hóa được HTX ký cho phép. Vợ chồng ông T3, bà A phục hóa, cải tạo tốn rất nhiều thời gian, công sức nên mới trở thành đất trồng lúa 03 vụ/năm. Trong thời gian sử dụng đất, bà A đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước.

Gia đình bà A cải tạo, phục hóa và canh tác liên tục từ năm 1996 đến nay, không có ai tranh chấp và đã được UBND huyện N cấp GCNQSDĐ năm 2003. Quá trình sử dụng đất, bà Lê Thị A chuyển nhượng cho vợ chồng ông Trương Thanh T, bà Thạch Thị Phương T1 một phần diện tích đất nhưng chưa hoàn tất thủ tục sang tên, chưa được cấp giấy chứng nhận.

Theo yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Mỹ C thì bà Lê Thị A không đồng ý, đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Mỹ C. Bà Lê Thị A có yêu cầu phản tố:

- Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện N cấp cho bà Lưu Mĩ C1 (Sau này điều chỉnh thành Lưu Mỹ C) không ghi ngày, tháng, năm cấp. Số Giấy chứng nhận 245 QSDĐ/QĐUB.NP, đối với thửa đất số 518, tờ bản đồ số 03 diện tích 1160m2, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. - Trường hợp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận thì buộc nguyên đơn phải trả công sức cải tạo đất cho bị đơn theo kết quả định giá của Hội đồng định giá.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Vạn Ngọc K1, anh Lưu Phú W, anh Vạn Trung K2: Ông K1, anh W, anh K2 thống nhất với toàn bộ ý kiến, yêu cầu khởi kiện của bà Lưu Mỹ C. Ông K1, anh W, anh K2 yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt đồng thời ủy quyền cho ông Lê Tấn H. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Xuân N2, chị Nguyễn Thị Xuân H2 trình bày:

Chị N2, chị H2 thống nhất với toàn bộ ý kiến của mẹ là bà Lê Thị A. Chị N2, chị H2 yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vợ chồng ông Trương Thanh T, bà Thạch Thị Phương T1: Tòa án đã tống đạt văn bản tố tụng nhưng ông T, bà T1 không đến Tòa án. Ông Trương Thanh T gửi đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt ghi ngày 26/10/2022, chứa đựng nội dung trình bày về vụ án như sau:

Vợ chồng ông Trương Thanh T, bà Thạch Thị Phương T1 có nhận chuyển nhượng thửa đất của bà Lưu Mỹ Ý. Diện tích này được cấp giấy chứng nhận hợp pháp và không có tranh chấp (giáp ranh với phần diện tích đất đang tranh chấp). Vì thửa đất nhận chuyển nhượng của bà Lưu Mỹ Ý không có lối đi nên vợ chồng ông nhận chuyển nhượng một phần diện tích đất của hộ bà Lê Thị A, ngang 05m và chiều dài được tính hết chiều dài của thửa đất giá 150.000.000đ. Hiện nay phần diện tích nhận chuyển nhượng chưa được cấp giấy chứng nhận vì đang có tranh chấp giữa bà Lưu Mỹ C với bà Lê Thị A. Ông Trương Thanh T có yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt.

Bà Thạch Thị Phương T1 không đến Tòa theo giấy triệu tập nên không có lời khai.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lưu Mỹ Ý trình bày:

Bà Lưu Mỹ Ý có chuyển nhượng cho vợ chồng ông Trương Thanh T và Thạch Thị Phương T1 diện tích đất và vợ chồng ông T, bà T1 đã xây dựng nhà ở như hiện nay; Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp. Hiện nay bà Lưu Mỹ C tranh chấp với bà Lê Thị A không liên quan đến diện tích bà Ý chuyển nhượng cho vợ chồng ông T, bà T1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Ủy ban nhân dân huyện N trình bày:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C 776627 số vào sổ cấp giấy chứng nhận số 295 QSDĐ/QĐUB.NP đã cấp cho hộ bà Lưu Mỹ C mặc dù không ghi ngày tháng năm những vẫn có giá trị pháp lý. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 014114 đã cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3 ngày 10/11/2003 số vào sổ cấp GCNQSDĐ số 01895 QSDĐ/487/QĐ/H/2003 tại thửa đất số 926, tờ bản đồ địa chính số B, thị trấn P, diện tích 1148m2, đất lúa gồm các thành viên: Ông Nguyễn Văn T3 (đã chết), bà Lê Thị A (vợ ông T3), bà Nguyễn Thị Xuân N2 (con ông T3). Việc cấp GCNQSDĐ tại thửa đất 926, tờ bản đồ địa chính số 21, thị trấn P là cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3 chứ không phải cá nhân ông T3. Đồng thời căn cứ cấp GCNSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn T3 thời điểm bấy giờ là áp dụng theo Luật đất đai 1993, theo đó Luật đất đai 1993 không yêu cầu người đứng tên trên GCNQSDĐ phải là người trực tiếp sản xuất nông nghiệp có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp như quy định hiện hành (Luật đất đai 2003).

Việc thửa đất số 518, tờ bản đồ 299 số 3 (nay là thửa đất số 926, tờ bản đồ số 21), thị trấn P được cấp 02 GCNQSDĐ và cấp cho 02 chủ thể khác nhau là do sai sót trong công tác theo dõi, quản lý đất đai tại địa phương. Khi chuyển từ hệ thống bản đồ 299 sang hệ thống bản đồ địa chính, UBND huyện N đã không cập nhật đầy đủ dữ liệu nên dẫn đến việc mặc dù thửa đất số 92, tờ bản đồ địa chính số B, thị trấn P đã cấp GCNQSDĐ cho hộ bà Lưu Mỹ C nhưng vẫn tham mưu UBND huyện cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn T3. UBND huyện sẽ giao cơ quan chuyên môn kiểm tra, thu hồi đối với các GCNQSDĐ đã cấp không đúng quy định.

Về nguồn gốc sử dụng đất của hộ bà Lưu Mỹ C và hộ ông Nguyễn Văn T3: Qua xác minh được biết trước năm 1994, Hợp tác xã N3 có cấp 01 thửa ruộng khoán cho hộ bà Lê Thị A, tục danh xứ đồng Đập Giữa và cấp đất kinh tế gia đình cho hộ bà Lưu Mỹ C tại xứ đồng Phó. Đến năm 1996, hai hộ gia đình đến HTX N3 hoán đổi ruộng và sử dụng ổn định cho đến nay. Hiện nay thửa ruộng bà Lưu Mỹ C hoán đổi với bà Lê Mỹ A1 thì bà Lưu Mỹ C cho ông Thiên Sanh L thuê để sản xuất.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:

Áp dụng:

Điều 34, Điều 147 khoản 1, Điều 157 khoản 1, Điều 165 khoản 1, Điều 244, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 32 khoản 4 của Luật tố tụng hành chính;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Điều 699 của Bộ luật Dân sự năm 1995; Án lệ số 40/2021/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 23/02/2021 và được công bố theo Quyết định 42/QĐ-CA 12/3/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

- Tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lưu Mỹ C đối với bị đơn Lê Thị A về việc:

- Yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất khi hết thời hạn của hợp đồng hoán đổi đất bằng lời nói;

- Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa S 014114, số vào sổ 01895 QSDĐ/487/QĐ/H/2003 ngày 10/11/2003, thửa đất số 926, tờ bản đồ số 21, diện tích 1.148m2 được UBND huyện N cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3. 2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Lê Thị A đối với nguyên đơn Lưu Mỹ C về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ghi ngày tháng năm, số bìa C 776627, số vào sổ 295 QSDĐ/QĐUB.NP do UBND huyện N cấp cho hộ bà Lưu Mỹ C thửa đất số 518, tờ bản đồ 03, diện tích 1160m2 đất “KTGĐ”.

3. Công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất bằng lời nói giữa hộ gia đình bà Lưu Mỹ C với hộ gia đình bà Lê Thị A. 3.1. Hộ gia đình bà Lê Thị A gồm bà Lê Thị A, bà Nguyễn Thị Xuân N2, Nguyễn Thị Xuân H2 được quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 926, tờ bản đồ số 21 diện tích 1148m2 do UBND huyện N cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3. Trong đó:

- Hộ gia đình bà Lê Thị A đang sử dụng 938,6m2 được xác định bởi các điểm 1, 2, 3, 4, 13, 14, 5, 6, 7, 8, 9, 10 theo trích lục ngày 10/8/2022 của Văn phòng Đ; Diện tích thuộc đường đi là 22,8m2.

- Vợ chồng ông Trương Thanh T, bà Thạch Thị Phương T1 đang sử dụng diện tích 186,6m2 được xác định bởi các điểm 7, 8, 9, 10, 1, 2, 3, 4, 12, 11, 16 theo trích lục ngày 10/8/2022 của Văn phòng Đ; - Trường hợp hộ bà Lê Thị A và vợ chồng ông Trương Thanh T, bà Thạch Thị Phương T1 có tranh chấp đối với diện tích 186,6m2 được xác định bởi các điểm 7, 8, 9, 10, 1, 2, 3, 4, 12, 11, 16 theo trích lục ngày 10/8/2022 của Văn phòng Đ thì sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

- Hộ bà Lê Thị A; Vợ chồng ông Trương Thanh T, Thạch Thị Phương T1 đang quản lý, sử dụng các thửa đất được tiếp tục sử dụng đất. Giữ nguyên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa S 014114, số vào sổ 01895 QSDĐ/487/QĐ/H/2003 ngày 10/11/2003, thửa đất số 926, tờ bản đồ số 21, diện tích 1.148m2 được UBND huyện N cấp cho hộ ông Lê Văn T4. Người sử dụng có nghĩa vụ đăng ký biến động về diện tích theo trích lục đính kèm bản án.

- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ghi ngày tháng năm, số bìa C 776627, số vào sổ 295 QSDĐ/QĐUB.NP đối với thửa đất số 518, tờ bản đồ 03, diện tích 1160m2 đất “KTGĐ” do Ủy ban nhân dân huyện N cấp cho hộ gia đình bà Lưu Mĩ C1 (Điều chỉnh tại trang 4 thành Lưu Mỹ C). - Yêu cầu tính công sức cải tạo đất của bị đơn không phát sinh trong vụ án vì yêu cầu khởi kiện đòi lại đất của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận.

3.2. Hộ gia đình bà Lưu Mỹ C gồm bà Lưu Mỹ C, ông Vạn Ngọc K1, anh Lưu Phú W, anh Vạn Trung K2 được quyền sử dụng thửa đất số 540 diện tích 912,2m2, tờ bản đồ địa chính số 21 thị trấn P theo trích lục bản đồ địa chính ngày 26/4/2022 của Văn phòng Đ đính kèm bản án sơ thẩm. Hộ gia đình bà Lưu Mỹ C có nghĩa vụ thực hiện thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất 540 diện tích 912,2m2, tờ bản đồ địa chính số B thị trấn P. Thửa đất hiện nay đang để trống thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình bà Lưu Mỹ C. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền thi hành án và quyền kháng cáo của các bên đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/10/2022, nguyên đơn bà Lưu Mỹ C có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm, Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Lưu Mỹ C là ông Lê Tấn H trình bày: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, gia đình bà C với gia đình bà A hoán đổi đất là có thật, thời hạn hoán đổi 20 năm. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện N cấp cho hộ gia đình bà Lưu Mĩ C1 (điều chỉnh thành Lưu Mỹ C) không ghi ngày tháng năm nhưng vẫn có giá trị pháp lý vì được cấp trước năm 1996. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện N cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3 năm 2003 là trái pháp luật vì nguồn gốc giấy chứng nhận ghi Hợp tác xã giao khoán năm 1996 trong khi bà A lại cho rằng đất có nguồn gốc xin phục hóa. Đơn xin cấp đất ghi năm 1996, thời điểm này Hợp tác xã không còn hoạt động nên không có thẩm quyền cấp đất. Vì vậy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Lê Thị A là ông Trần Đăng K trình bày: Bà C không chứng minh được hợp đồng hoán đổi đất. Đơn xin phục hóa là có thật. Nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp do Hợp tác xã cấp cho hộ gia đình bà C nhưng hộ gia đình bà C không canh tác do đất xấu, bạc màu. Do đó, ông T3 (chồng bà A) có đơn xin phục hóa và canh tác từ năm 1996 đến năm 2003 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giả sử việc hoán đổi là có thật thì việc hoán đổi theo pháp luật đất đai quy định là không có thời hạn, phải được công nhận hoán đổi theo Án lệ số 40/2021/AL. Mặt khác, hộ gia đình bà C không có quá trình canh tác đất cũng như không có nhu cầu sử dụng đất. Bản án sơ thẩm đã xét xử đúng quy định, khách quan, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký đã tuân thủ đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; bảo đảm cho các đương sự tham gia phiên tòa thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Về nội dung: Bản án sơ thẩm áp dụng án lệ số 40/2021 là phù hợp với tình tiết của vụ án. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được thêm chứng cứ nào mới. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà C, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn - bà Lưu Mỹ C trong hạn luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Nguyên đơn là người kháng cáo và bị đơn có mặt tại phiên tòa phúc thẩm; một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không lý do. Sự vắng mặt của các đương sự nêu trên không làm ảnh hưởng đến việc xem xét kháng cáo, căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án vắng mặt các đương sự nêu trên.

[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà Lưu Mỹ C: Về nội dung vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất sau khi hết thời hạn hoán đổi đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện N đã cấp cho bị đơn năm 2003.

[2.1] Các bên đương sự thống nhất nguồn gốc phần đất đang tranh chấp là thửa 518, tờ bản đồ 03, diện tích 1160m2 (Thửa đất số 518, nay là thửa 926) là của hộ gia đình bà Lưu Mỹ C. Nguyên đơn bà Lưu Mỹ C cho rằng đã hoán đổi thửa đất số 518, tờ bản đồ 03, diện tích 1160m2 (Thửa đất số 518, nay là thửa 926) để nhận lấy thửa đất số 540, tờ bản đồ số 21, diện tích 912,2m2 (Thửa đất số 540) trong thời hạn 20 năm (1996-2016) theo kết quả thẩm định tại trích lục ngày 26/4/2022 của Văn phòng Đ. Hộ gia đình bà C cho những người khác cùng địa phương thuê thửa đất số 540 đến thời điểm năm 2019. Hiện nay thửa đất đang để trống.

Bị đơn bà Lê Thị A cho rằng hộ gia đình bà C không canh tác nên hộ gia đình bà A có đơn xin phục hóa. Đơn xin phục hóa do phía bà A cung cấp có nội dung: Hiện nay Ban N3 có cấp phát ruộng thuộc Cánh đồng Phó với diện tích là 1160m2 cho hộ Lưu Mỹ C, từ khi cấp phát cho đến nay hộ không canh tác. Tuy nhiên, đơn đăng ký quyền sử dụng đất ông T3 kê khai nguồn gốc HTX cấp năm 1996, đơn không ghi ngày tháng năm; Đến ngày 25/02/2003, UBND thị trấn P xác nhận, phê duyệt; Ngày 15/4/2003 địa chính huyện phê duyệt và ngày 10/11/2003 được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn T3. Từ đó cho thấy có căn cứ khẳng định hộ gia đình bà Lưu Mỹ C, ông Vạn Ngọc K1 hoán đổi thửa đất số 518 (hiện nay là thửa 926) tờ bản đồ 03 (hiện nay là tờ bản đồ 21) diện tích 887,8m2 (diện tích đo thực tế) để nhận lấy thửa đất số 540 tờ bản đồ số 21, diện tích 912,2m2 của hộ gia đình ông Nguyễn Văn T3, bà Lê Thị A. Các bên đã giao và nhận đất canh tác từ năm 1996. Hộ gia đình ông T3, bà A trực tiếp canh tác, sử dụng ổn định, liên tục. Hộ gia đình bà C, ông K1 không sử dụng đất mà cho những người khác thuê cho đến năm 2019 và hiện nay đất đang để trống.

Tuy nhiên về thời hạn hoán đổi đất thì có mâu thuẫn bởi lẽ nguyên đơn cho rằng thời hạn hoán đổi đất là 20 năm từ năm 1996 đến 2016 là không đủ cơ sở vì đến năm 2019 bà C vẫn đang cho người khác thuê đất nên lời khai của bà C mâu thuẫn, không có căn cứ để chứng minh thời hạn hoán đổi là 20 năm.

[2.2] Về quá trình sử dụng đất:

- Hộ gia đình ông T3, bà A đã đổ đất, nâng nền 467,6m2 trên tổng diện tích thửa đất là 938,6 m2 (887,8m2 + 50,8m2), đồng thời chuyển nhượng cho vợ chồng ông Trương Thanh T, bà Thạch Thị Phương T1 186,6m2; Vợ chồng ông T, bà T1 đã xây tường rào, cổng kiên cố. Phần diện tích thuộc đường đi là 22,8m2.

- Hộ gia đình ông T3, bà A được UBND huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa S 014114, số vào sổ 01895 QSDĐ/487/QĐ/H/2003 ngày 10/11/2003 đối với thửa đất số 926, TBĐ 21, diện tích 1.148m2. Tuy nhiên, hộ bà Lưu Mỹ C cũng được UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận nhưng không ghi ngày tháng năm cấp, số bìa C 776627, số vào sổ 295 QSDĐ/QĐUB.NP đối với thửa đất số 518, tờ bản đồ 03, diện tích 1160m2 đất “KTGĐ”.

- Thửa đất số 518 tờ bản đồ số 03 chính là thửa đất 926 tờ bản đồ số 21 diện tích hiện nay là 1148m2. Riêng thửa đất của hộ ông Nguyễn Văn T3 hoán đổi cho hộ gia đình bà Lưu Mỹ C hiện nay thuộc thửa đất số 540, tờ bản đồ số 21 thị trấn P, diện tích 912,2m2 thì hộ gia đình bà C chưa thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[2.3] Các tình tiết của vụ án tương tự Án lệ số 40/2021/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 23/02/2021 và được công bố theo Quyết định 42/QĐ-CA 12/3/2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Tình huống Á lệ: Các bên chuyển đổi quyền sử dụng đất trên thực tế, không có thỏa thuận bằng văn bản; các bên đã sử dụng đất ổn định, lâu dài, không có tranh chấp, đã đăng ký, kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận chuyển đổi. Do đó, trong vụ án này hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất phải được công nhận. Vì hợp đồng hoán đổi quyền sử dụng đất được Tòa án công nhận theo quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa; Thửa đất hiện nay đang được hộ gia đình bà A canh tác, sử dụng nên vấn đề tính công sức cải tạo đất của bị đơn Lê Thị A không được đặt ra giải quyết (đây là yêu cầu phụ thuộc).

Hội đồng xét xử xét thấy cấp sơ thẩm công nhận việc hoán đổi đất của các bên, từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn được UBND huyện N cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa S 014114, số vào sổ cấp 01895 QSDĐ/487/QĐ/H/2003 ngày 10/11/2003, đối với thửa đất số 926, tờ bản đồ 21, diện tích 1.148m2, thị trấn P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.4] Do Tòa án công nhận việc hoán đổi đất của các bên nên phải hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ghi ngày tháng năm cấp, số vào sổ cấp 295 QSDĐ/QĐ-UB.NP, do Ủy ban nhân dân huyện N cấp cho Lưu Mĩ C1 (đính chính sai sót tại trang 4 là Lưu Mỹ C) đối với thửa đất số 518, tờ bản đồ số 03, diện tích 1160m2, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận là có căn cứ.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận. Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Lưu Mỹ C phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Áp dụng Nghị quyết 326/2016 UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn - bà Lưu Mỹ C. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2022/DS-ST ngày 28 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - bà Lưu Mỹ C đối với bị đơn - bà Lê Thị A về việc:

- Yêu cầu đòi lại quyền sử dụng đất khi hết thời hạn của hợp đồng hoán đổi đất bằng lời nói;

- Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa S 014114, số vào sổ 01895 QSDĐ/487/QĐ/H/2003 ngày 10/11/2003, thửa đất số 926, tờ bản đồ số 21, diện tích 1.148m2 được UBND huyện N cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3. 2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn - bà Lê Thị A đối với nguyên đơn - bà Lưu Mỹ C về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ghi ngày tháng năm, số bìa C 776627, số vào sổ 295 QSDĐ/QĐUB.NP do UBND huyện N cấp cho hộ bà Lưu Mỹ C thửa đất số 518, tờ bản đồ 03, diện tích 1160m2 đất “KTGĐ”.

3. Công nhận hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất bằng lời nói giữa hộ gia đình bà Lưu Mỹ C với hộ gia đình bà Lê Thị A. 3.1. Hộ gia đình bà Lê Thị A gồm bà Lê Thị A, bà Nguyễn Thị Xuân N2, Nguyễn Thị Xuân H2 được quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 926, tờ bản đồ số 21 diện tích 1148m2 do UBND huyện N cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T3. Trong đó:

- Hộ gia đình bà Lê Thị A đang sử dụng 938,6m2 được xác định bởi các điểm 1, 2, 3, 4, 13, 14, 5, 6, 7, 8, 9, 10 theo trích lục ngày 10/8/2022 của Văn phòng Đ; Diện tích thuộc đường đi là 22,8m2.

- Vợ chồng ông Trương Thanh T, bà Thạch Thị Phương T1 đang sử dụng diện tích 186,6m2 được xác định bởi các điểm 7, 8, 9, 10, 1, 2, 3, 4, 12, 11, 16 theo trích lục ngày 10/8/2022 của Văn phòng Đ. - Trường hợp hộ bà Lê Thị A và vợ chồng ông Trương Thanh T, bà Thạch Thị Phương T1 có tranh chấp đối với diện tích 186,6m2 được xác định bởi các điểm 7, 8, 9, 10, 1, 2, 3, 4, 12, 11, 16 theo trích lục ngày 10/8/2022 của Văn phòng Đ thì sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

- Hộ bà Lê Thị A; Vợ chồng ông Trương Thanh T, Thạch Thị Phương T1 đang quản lý, sử dụng các thửa đất được tiếp tục sử dụng đất. Giữ nguyên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số bìa S 014114, số vào sổ 01895 QSDĐ/487/QĐ/H/2003 ngày 10/11/2003, thửa đất số 926, tờ bản đồ số 21, diện tích 1.148m2 được UBND huyện N cấp cho hộ ông Lê Văn T4. Người sử dụng có nghĩa vụ đăng ký biến động về diện tích theo trích lục đính kèm bản án.

- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không ghi ngày tháng năm, số bìa C 776627, số vào sổ 295 QSDĐ/QĐUB.NP đối với thửa đất số 518, tờ bản đồ 03, diện tích 1160m2 đất “KTGĐ” do Ủy ban nhân dân huyện N cấp cho hộ gia đình bà Lưu Mĩ C1 (Điều chỉnh tại trang 4 thành Lưu Mỹ C).

- Yêu cầu tính công sức cải tạo đất của bị đơn không phát sinh trong vụ án vì yêu cầu khởi kiện đòi lại đất của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận.

3.2. Hộ gia đình bà Lưu Mỹ C gồm bà Lưu Mỹ C, ông Vạn Ngọc K1, anh Lưu Phú W, anh Vạn Trung K2 được quyền sử dụng thửa đất số 540 diện tích 912,2m2, tờ bản đồ địa chính số 21 thị trấn P theo trích lục bản đồ địa chính ngày 26/4/2022 của Văn phòng Đ đính kèm bản án sơ thẩm. Hộ gia đình bà Lưu Mỹ C có nghĩa vụ thực hiện thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất 540 diện tích 912,2m2, tờ bản đồ địa chính số B thị trấn P. Thửa đất hiện nay đang để trống thuộc quyền sử dụng của hộ gia đình bà Lưu Mỹ C.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lưu Mỹ C phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000588 ngày 16/11/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận. Bà Lưu Mỹ C đã nộp xong tiền án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về đòi lại quyền sử dụng đất khi hết thời hạn hoán đổi đất số 339/2023/DS-PT

Số hiệu:339/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về