Bản án về đòi lại đất bị lấn chiếm số 33/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 33/2023/DS-PT NGÀY 11/07/2023 VỀ ĐÒI LẠI ĐẤT BỊ LẤN CHIẾM

Ngày 11 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số 23/2023/TLPT- DS ngày 16 tháng 5 năm 2023 về đòi lại đất bị lấn chiếm. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2023/DS-ST ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1995/2023/QĐ – PT ngày 06 tháng 6 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Dư Vĩnh Q, sinh năm 1988; bà Phùng Thị Khánh H, sinh năm 1992 Địa chỉ: Tổ dân phố Tr, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Văn R, sinh năm 1947; bà Trần Thị H, sinh năm 1951 Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

- Người kháng cáo: Ông Trần Văn R, bà Trần Thị H Địa chỉ: Tổ dân phố T, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung Bản án sơ thẩm số 06/2023/DS – ST ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Tháng 12 năm 2020, vợ chồng ông Dư Vĩnh Q, bà Phùng Thị Khánh H (viết tắt là nguyên đơn) nhận chuyển nhượng thửa đất số 1154, tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình với diện tích là 515,3m2 từ ông Trần Trọng Đ, bà Phạm Thị Th. Ngày 07/4/2021, nguyên đơn được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (viết tắt GCNQSDĐ) số DA 337981. Khi nhận chuyển nhượng, nguyên đơn căn cứ vào GCNQSDĐ có diện tích 515,3m2 nên không kiểm tra thực địa. Tháng 5/2021, nguyên đơn yêu cầu địa chính phường Q kiểm tra diện tích thửa đất thì phát hiện thửa đất bị thiếu khoảng 78m2 đất; nguyên nhân đất nguyên đơn bị thiếu là do vợ chồng ông Trần Văn R, bà Trần Thị H (viết tắt là bị đơn) hộ liền kề đang sử dụng thửa đất số 1175, tờ bản đồ số 10 tổ dân phố T, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình lấn chiếm hơn 30m2. Nguyên đơn đã yêu cầu bị đơn trả lại diện tích đất đã lấn chiếm, nhưng bị đơn không đồng ý. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại toàn bộ diện tích đất đã lấn chiếm cho nguyên đơn.

Bị đơn trình bày: Thửa đất 1175, tờ bản đồ số 10 tổ dân phố T, phường Q, thị xã B của bị đơn sử dụng có nguồn gốc được Hợp tác xã T cấp đất từ năm 1979, khi cấp chỉ đo sào chứ không có diện tích cụ thể bằng m2. Năm 1980 bị đơn nhận chuyển nhượng thêm diện tích đất ở phía sau của ông Hoàng Diễn H (đây là phần đất bị tranh chấp). Bị đơn sử dụng ổn định từ khi nhận chuyển nhượng cho đến nay. Từ năm 1991 đến 1993, bị đơn đã được cấp GCNQSDĐ, bị đơn không nhớ rõ năm và diện tích được cấp. Năm 2016, bị đơn tách một phần thửa đất cho con trai Trần Mạnh H, phần còn lại bị đơn được UBND thị xã B cấp đổi thành GCNQSDĐ số CG 531450 ngày 30/12/2016. Năm 2020, bị đơn lại tiếp tục tách phần thửa đất để cho con trai Trần Văn D một thửa và chuyển nhượng cho 02 người khác, sau đó được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình cấp đổi GCNQSDĐ số DC 509781 ngày 30/11/2021, với diện tích 208,5m2 và được bị đơn sử dụng cho đến nay. Phía sau khu đất của gia đình bị đơn trước đây có bãi đất trống tiếp giáp với thửa đất của bà Trần Thị L là chị gái của bị đơn; sau này vợ chồng con gái bà L (cháu B và cháu Th) sử dụng, thửa đất này đã thuê máy san bằng hàng cây bạch đàn, dương liễu để làm nhà nhưng bị đơn suy nghĩ đến tình cậu cháu nên cũng không có ý kiến gì, ranh giới hai bên vẫn còn một hàng cây. Sau đó, các cháu được cấp GCNQSDĐ và mua đi bán lại như thế nào bị đơn không rõ nhưng những người nhận chuyển nhượng đã tự xây lại hàng rào bằng bê tông để ngăn cách và hai bên sử dụng ổn định nhiều năm nay. Tuy nhiên, đến khi vợ chồng nguyên đơn thuê máy múc đòi phá dỡ công trình nhà tắm, nhà vệ sinh của bị đơn xây dựng theo ranh giới cũ thì bị đơn mới biết việc tranh chấp. Theo bị đơn thì quá trình sử dụng thửa đất từ năm 1979 cho đến nay ổn định, đúng ranh giới được cấp, không lấn chiếm; việc nguyên đơn được cấp GCNQSDĐ nhưng bị đơn là hộ liền kề lại không biết và không ký xác nhận ranh giới là không đúng quy định. Vì vậy, bị đơn không đồng ý trả lại quyền sử dụng đất theo yêu cầu của nguyên đơn.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2023/DS – ST ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn đã quyết định. Áp dụng Điều 186, Điều 203; Điều 264; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; các Điều 163; 164; 166; 175; 176 Bộ luật Dân sự 2015; Các Điều 100; 166; 170; 203 Luật đất đai năm 2013; Khoản 2 Điều 26; điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định “Về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án”.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện nguyên đơn ông Dư Vĩnh Q và bà Phùng Thị Khánh H. Buộc ông Trần Văn R và bà Trần Thị H phải tháo dỡ toàn bộ các công trình xây dựng, gồm: mái che, sân bê tông, bể nước, hàng rào để trả lại quyền sử dụng đất có diện tích 25,7m2, tại thửa đất số 1154, tờ bản đồ số 10, tổ dân phố T, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình cho ông Dư Vĩnh Q và bà Phùng Thị Khánh H; kích thước các cạnh như sau: Cạnh phía Đông: giáp với phần đất gắn liền với phía Tây của ngôi nhà cấp IV, gồm 03 đoạn, có tổng chiều dài 7,63 mét; cạnh phía Tây, Phía Nam và phía Bắc giáp với phần còn lại của thửa đất số 1154; dài lần lượt là 07 mét, 3,87 mét và 4,67 mét (Kích thước và hình dạng cụ thể theo sơ đồ bản vẽ hiện trạng kèm theo bản án). Buộc ông Trần Văn R và bà Trần Thị H phải trả cho nguyên đơn ông Dư Vĩnh Q và bà Phùng Thị Khánh H giá trị quyền sử dụng đất diện tích 5,1m2 , có giá trị thành tiền là 30.600.000 đồng (Ba mươi triệu sáu trăm nghìn đồng). Ông Trần Văn R, bà Trần Thị H được quyền sử dụng diện tích đất tranh chấp là 5,1m2 của thửa đất số 1154, tờ bản đồ số 10 tại tổ dân phố T, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; phần diện tích có các cạnh như sau: Phía Đông giáp thửa đất số 1175, có chiều dài 5,93 mét; Phía Tây, phía Nam và phía Bắc giáp thửa đất số 1154, tờ bản đồ tờ bản đồ số 10 tại tổ dân phố T, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình của ông Dư Vĩnh Q và bà Phùng Thị Khánh H; phía Tây có chiều dài 5,93 mét; phía Nam có chiều dài 0,96 mét; phía Bắc có chiều dài 0,80 mét (Kích thước và hình dạng cụ thể theo sơ đồ bản vẽ hiện trạng kèm theo bản án).

Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, án phí vụ kiện và quyền kháng cáo cho các đương sự.

Ngày 10 tháng 4 năm 2023 bị đơn làm đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm không chấp nhận việc khởi kiện của nguyên đơn. Giữ nguyên hiện trạng thửa đất bị đơn đang sử dụng.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn giữ nguyên đơn kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các đương sự và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm; miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bị đơn.

Sau khi xem xét nội dung kháng cáo, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; kết quả tranh luận, ý kiến của kiểm sát viên, nguyên đơn, bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ngày 28 tháng 3 năm 2022 Tòa án nhân dân thị xã Ba đồn xét xử và ban hành Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2023/DS – ST. Ngày 10 tháng 4 năm 2023 bị đơn ông Trần Văn R, bà Trần Thị H làm đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị đơn làm trong hạn luật định, bị đơn thuộc diện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định tại Điều 272 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nên chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn để xét xử phúc thẩm.

[2] Ngày 04 tháng 4 năm 2021 nguyên đơn được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Bình cấp GCNQSDĐ số DA 337981 tại thửa đất số 1154, tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B với diện tích 515,3m2; thửa đất này có nguồn gốc do nguyên đơn nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Trọng Đ, bà Phạm Thị Th từ năm 2020 (ông Đ, bà Th được cấp GCNQSDĐ số CI 872897 ngày 03/8/2017, do nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị L và bà L được cấp GCNQSDĐ lần đầu từ năm 1993).

[3] Ngày 30 tháng 3 năm 1993, bị đơn được UBND huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình cấp GCNQSDĐ số A 208764 với diện tích 1.000m2 tại thửa số 545, tờ bản đồ số 5 xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; năm 2016 thửa đất của bị đơn được đổi biến động thành thửa đất số 757, tờ bản đồ số 10 phường Q với diện tích 1.134,4m2 và bị đơn tách thửa đất này thành thửa đất số 757 với diện tích 826,1m2 và thửa đất số 879 với diện tích 308,3m2, sau đó bị đơn tặng cho ông Trần Mạnh H toàn bộ thửa đất số 879.

[4] Năm 2020, bị đơn tiếp tục tách thửa đất số 757, tờ bản đồ số 10 phường Q với diện tích 826,1m2 thành 04 thửa đất đều tại tờ bản đồ số 10 phường Q, gồm: Thửa đất số 1140 với diện tích 360,4m2; thửa đất số 1141 với diện tích 151,1m2; thửa đất số 1142 với diện tích 172m2; thửa đất số 1143 với diện tích 142,6m2, sau đó bị đơn tặng cho bà Trần Thị H thửa đất số 1143, và tặng cho ông Trần Văn D, bà Nguyễn Thị Thanh H 02 thửa đất số 1141 và 1142, tờ bản đồ số 10 phường Q. Năm 2021 bị đơn tách thửa đất số 1140, tờ bản đồ số 10 phường Q, với diện tích 360,4m2 thành 02 thửa đất số 1174 có diện tích 151,9m2 và thửa đất số 1175 có diện tích 208,5m2, sau đó bị đơn chuyển nhượng cho ông M, bà H thửa đất số 1174, tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B.

[5] Quá trình thu thập chứng cứ thấy: Sau khi cấp đổi GCNQSDĐ năm 2016 diện tích đất của bị đơn đã tăng lên 134,4m2 so với diện tích đất được cấp GCNQSDĐ lần đầu năm 1993. Từ năm 2016 đến nay bị đơn đã 03 lần tách các thửa đất của mình (lần 1 năm 2016 tách thửa đất số 757 có diện tích 1.134,4m2 thành thửa đất 757 có diện tích 826,1m2 và thửa đất số 879 có diện tích 308,3m2, sau đó bị đơn tặng cho ông Trần Mạnh H toàn bộ thửa đất số 879; lần 2 vào năm 2020 tách thửa đất số 757, tờ bản đồ số 10 phường Q với diện tích 826,1m2 thành 04 thửa đất như phân tích tại mục [4] và lần 3 vào năm 2021 bị đơn tiếp tục tách thửa đất số 1140, tờ bản đồ số 10 phường Q, với diện tích 360,4m2 thành 02 thửa đất số 1174 có diện tích 151,9m2 và thửa đất số 1175 có diện tích 208,5m2, bị đơn chuyển nhượng cho ông M, bà H thửa đất số 1174, tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B).

[6] Như vậy, từ năm 2016 đến năm 2021 bị đơn đã 03 lần thực hiện tách các thửa đất của mình theo đúng tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B. Theo kết quả thẩm định tại chổ ngày 08/6/2022 của Toà án cấp sơ thẩm thì bị đơn đã sử dụng đất lấn chiếm sang đất của nguyên đơn 30,8m2 tại các điểm 4, 5, 6, 11, 10, 8 và 7; trong đó đã xây dựng nhà kiên cố 5,1m2 tại các điểm 4, 5, 9 và 7, trong đó từ điểm 4 đến điểm 5 dài 0,8 mét, từ điểm 4 đến điểm 7 dài 5,93 mét, từ điểm 7 đến điểm 9 dài 0,96 mét và từ điểm 5 đến điểm 9 dài 5,93 mét; diện tích sân bê tông rộng 0,8m2 tại các điểm 7, 9, 10 và 8, trong đó từ điểm 7 đến điểm 9 dài 0,96 mét, từ điểm 9 đến điểm 10 dài 0,74 mét, từ điểm 10 đến điểm 8 dài 0,96 mét và từ điểm 7 đến điểm 8 dài 0,74 mét; diện tích đất làm mái che bằng tôn 24,9m2 tại các điểm 5, 6, 11, 10 và 9, trông đó từ điểm 5 đến điểm 6 dài 4,67 mét, từ điểm 5 đến điểm 10 dài 6,67 mét, từ điểm 10 đến điểm 11 dài 2,91 mét và từ điểm 11 đến điểm 6 dài 7 mét.

[7] Ngày 08/6/2022 Hội đồng định giá cấp sơ thẩm định giá diện tích đất tranh chấp theo thị trường khoảng 6.000.000 đồng/m2, sau khi định giá các bên không có ý kiến về giá đã định, tại phiên toà sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm cá bên không có ý kiến gì khác về giá trị diện tích đất tranh chấp nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận giá diện tích tranh chấp đã xem xét ngày 08/6/2023 để giải quyết.

[8] Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy, Toà án cấp sơ thẩm buộc bị đơn trả lại 25,7m2 đất đã lấn chiếm cho nguyên đơn (trong đó buộc bị đơn phá bỏ các công trình là mái tôn trên diện tích 24,9m2 đất và 0,8m2 sân bê tông) và buộc bị đơn phải mua của nguyên đơn 5,1m2 đất (diện tích đất bị đơn đã xây dựng nhà kiên cố) với giá 30.600.000 đồng là có căn cứ cần chấp nhận để giữ nguyên bản án sơ thẩm; do đó kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận.

[9] Các đương sự có nghĩa vụ đến cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai để đăng ký biến động sử dụng đất theo quy định.

[10] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng, trả lại tiền tạm ứng án phí cho ông Q, bà H không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[11] Bị đơn là người cao tuổi, là thương binh đã có đơn xin miễn án phí, Toà án cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu 1.530.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm là không đúng quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, nên cần sửa lại bị đơn được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm. Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 272, Điều 273, khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 96 và khoản 1 Điều 99, Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án, xử:

1. Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Trần Văn R, bà Trần Thị H, đối với Bản án số 06/2023/DS – ST ngày 28 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Buộc ông Trần Văn R, bà Trần Thị H phải trả lại cho ông Dư Vĩnh Q, bà Phùng Thị Khánh H 25,7m2 đất tại thửa đất số 1.154, tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình (trong đó 24,9m2 đất ông R, bà H đã làm mái che bằng tôn và 0,8m2 sân bê tông); tại các điểm 5, 6, 11, 10, 8, 7 và 9; trong đó từ điểm 5 đến điểm 6 dài 4,67 mét, từ điểm 6 đến điểm 11 dài 07 mết, từ điểm 11 đến điểm 8 dài 3,87 mét, từ điểm 8 đến điểm 7 dài 0,74 mét, từ điểm 7 đến điểm 9 dài 0,96 mét và từ điểm 9 đến điểm 5 dài 5,93 mét (có sơ đồ thửa đất kèm theo bản án).

4. Buộc ông Trần Văn R, bà Trần Thị H phải phá bỏ toàn bộ mái tôn và các công trình khác đã xây dựng trên 25,7m2 đất tại các điểm 5, 6, 11, 8, 7 và 9 tại thửa đất số 1.154, tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình để trả lại đất cho ông Dư Vĩnh Q, bà Phùng Thị Khánh H.

5. Ông Trần Văn R, bà Trần Thị H được quản lý, sử dụng 5,1m2 đất tại các điểm 4, 5, 9 và 7 thuộc thửa đất số 1.154, tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; trong đó từ điểm 4 đến điểm 5 dài 0,8 mét, từ điểm 4 đến điểm 7 dài 5,93 mét, từ điểm 7 đến điểm 9 dài 0,96 mét và từ điểm 5 đến điểm 9 dài 5,93 mét.

6. Buộc ông Trần Văn R, bà Trần Thị H phải trả cho ông Dư Vĩnh Q, bà Phùng Thị Khánh H 30.600.000 đồng (ba mươi triệu, sáu trăm ngàn đồng), số tiền ông R, bà H trả để được quản lý, sử dụng 5,1m2 đất của ông Q, bà H tại các điểm 4, 5, 9 và 7 thuộc thửa đất số 1.154, tờ bản đồ số 10 phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình.

7. Ông Trần Văn R, bà Trần Thị H và ông Dư Vĩnh Q, bà Phùng Thị Khánh H có nghĩa vụ đến cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền để đăng ký biến động sử dụng đất theo quy định.

8. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng, trả lại tiền tạm ứng án phí cho ông Q, bà H không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

9. Ông Trần Văn R, bà Trần Thị H được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.

10. Tuyên bố: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên có nghĩa vụ thi hành án phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 11/7/2023. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về đòi lại đất bị lấn chiếm số 33/2023/DS-PT

Số hiệu:33/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về