Bản án về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 04/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 04/2021/DS-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 414/2020/TLST - DS ngày 26 tháng 5 năm 2020 về việc “Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST - DS ngày 03 tháng 03 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trương Thị N, sinh năm 1969. Địa chỉ: Ấp T, xã H, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

- Bị đơn: Bà Đặng Thị A, sinh năm 1970 Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, bà Trương Thị N trình bày: Bà và bà Đặng Thị A là bạn thân với nhau nhưng trong quá trình đi bán bảo hiểm chung với nhau có xảy ra mâu thuẫn. Sau đó thông qua ứng dụng Zalo bà A gửi tin nhắn cho bà và thông qua mạng xã hội Facebook gửi cho bà 02 đoạn ghi âm. Những tin nhắn và 02 đoạn ghi âm bà A gửi trên có nội dung là bà A nói bà có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Nguyễn Văn E, ông Lê Văn O. Ngoài ra, bà A nói với ông Nguyễn Tấn L là bà có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Nguyễn Văn E, ông Lê Văn O; nói với ông Lê Văn O là bà có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Nguyễn Văn E. Những lời lẽ này đã xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, của bà; làm cho vợ chồng bà mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi, không còn hạnh phúc. Nay bà yêu Tòa án buộc bà A bồi thường cho bà tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại với số tiền là 10 triệu đồng; buộc bà A bồi thường tiền mất thu nhập do bà bị mặt cảm với bạn bè không dám đi làm trong khoảng thời gian là 15 ngày với số tiền 6.000.000đồng. Đối với yêu cầu phản tố của bà A, bà không đồng ý vì bà không có xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà A.

Bị đơn, bà Đặng Thị A trình bày: Do giữa bà với bà N có mâu thuẫn với nhau trong việc bán bảo hiểm nên bà có nhắn tin nói chuyện với bà N qua ứng dụng Zalo và thông qua mạng xã hội Facbook bà có gửi cho bà N 02 đoạn ghi âm. Bà thừa nhận những tin nhắn và 02 đoạn ghi âm mà bà gửi cho bà N có nội dung là bà nói bà N có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Nguyễn Văn E, ông Lê Văn O. Có hai lý do bà nói bà N như vậy: Lý do thứ nhất là do trước đây bà N có gọi điện thoại cho bà, trong lúc nói chuyện bà N nói bà có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Nguyễn Văn Đ và nhiều người đàn ông khác; lý do thứ hai là do bà thấy ông Lê Văn O hôn bà N 02 lần tại quán ông Năm Thọ, 02 lần tại quán Năm Cày, chồng bà là Nguyễn Văn T thấy ông Lê Văn O hôn bà N 01 lần tại quán Chim Cảnh, con gái bà là Nguyễn Thị Kiều T thấy ông Nguyễn Tấn L hôn bà N 01 lần tại nhà trọ của gia đình bà, bà N nói với bà là ông Nguyễn Tấn L vật và hôn bà N tại quán karaoke của gia đình bà. Còn việc bà N cho rằng bà nói với ông Nguyễn Tấn L là bà N có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Nguyễn Văn E, ông Lê Văn O; nói với ông Lê Văn O là bà N có quan hệ nam nữ với ông Nguyễn Văn E là bà không có nói. Nay bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà N. Do tại nhà vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ, bà Dư Thị T, trong lúc bà với bà N cự cải thì bà N nói bà lấy chồng của bà N, qua nhà của bà N ăn trộm của bà N một quyển sổ bảo hiểm đã xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà nên bà có yêu cầu phản tố buộc bà N bồi thường cho bà tiền tổn thất tinh thần với số tiền là 20.000.000 đồng.

Ý kiến của vị Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý cho đến phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân thủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án:

Vị Kiểm sát viên cho rằng, qua các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Bà A thừa nhận là có nói bà N có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Lê Văn O, ông Nguyễn Văn E nhưng bà A không có chứng cứ chứng minh đã làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà N nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N, buộc bà A bồi thường cho bà N 10.000.000 đồng tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại. Đối với yêu cầu của bà N yêu cầu bà A bồi thường 6.000.000 đồng tiền mất thu nhập, căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thì không có cơ sở chấp nhận yêu cầu này. Đối với yêu cầu phản tố của bà A yêu cầu bà N bồi thường tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại với số tiền là 20.000.000đông, xét thấy bà A cho rằng bà N nói bà A lấy chồng bà N, ăn trộm của bà N 01 cuốn sổ bảo hiểm nhưng bà N không thừa nhận, bà A không chứng minh được nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu phản tố này của bà A. Ngoài ra, vị Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết về án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị N, yêu cầu phản tố của bị đơn bà Đặng Thị A, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh.

[3] Đối với yêu khởi kiện của bà N yêu cầu bà A bồi thường 10.000.000 đồng tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xúc phạm, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà A thừa nhận có nói bà N có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Nguyễn Văn E, ông Lê Văn O; phía nguyên đơn bà N cũng cung cấp được các đoạn ghi âm và tin nhắn của bà A để chứng minh cho điều này. Đối với lý do mà bà A đưa ra việc bà A xúc phạm bà N là do bà N nói bà Ân có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Nguyễn Văn Đ và nhiều người đàm ông khác là không có cơ sở chấp nhận, bởi vì trong suốt quá trình giải quyết vụ án bà A không có chứng cứ gì chứng minh ngoài việc bà A cho rằng chồng và con bà A nghe bà N nói trong khi đó bà N không thừa nhận. Còn việc bà A cho rằng bà A thấy ông Lê Văn O hôn bà N 02 lần tại quán ông Năm Thọ, 02 lần tại quán Năm Cày, chồng bà A là Nguyễn Văn T thấy ông Lê Văn O hôn bà N 01 lần tại quán Chim Cảnh, con gái bà A là Nguyễn Thị Kiều T thấy ông Nguyễn Tấn L hôn bà N 01 lần tại nhà trọ của gia đình bà A, việc này bà N, ông Oanh, ông Lộc đều cho rằng không có. Giả sử có sự việc như bà A khai thì cũng không thể vì chuyện này mà cho rằng bà N có mối quan hệ tình cảm nam nữ với ông Lê Văn O, Nguyễn Văn E. Như vậy, bà A đã có những lời lẽ xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của bà N. Tuy nhiên, việc bà A nói bà N có quan hệ tình cảm nam nữ với ông Lê Văn O, ông Nguyễn Văn E thì bà A chỉ gửi đoạn ghi âm, nhắn tin qua lại với bà N, bà A không có nói cho ai khác nghe về việc này nên mức độ, hậu quả của việc xúc phạm không lớn. Do đó, căn cứ vào các Điều 584, 585, 586, 592 của Bộ luật dân sự năm 2015, chấp nhận một phần yêu cầu này của bà N, buộc bà A bồi thường cho bà N tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là 04 tháng lương cơ sở bằng 5.960.000 đồng (04 tháng x 1.490.000đồng/ tháng = 5.960.000 đồng ). [4] Đối với yêu cầu khởi kiện của bà N yêu cầu bà A bồi thường tiền mất thu nhập do bà N bị mặc cảm với bạn bè không dám đi làm trong khoảng thời gian là 15 ngày với số tiền 6.000.000đồng, Hội đồng xét xử xét thấy: Như phân tích trên việc bà A nói xấu bà N thì bà A chỉ gửi đoạn ghi âm, nhắn tin qua lại với bà N, không có nói cho những người xung quanh nên việc bà N cho rằng bà N bị mặc cảm với bạn bè, không dám đi làm nên mất thu nhập là không có cơ sở nên không chấp nhận yêu cầu này của bà N.

[5] Đối với yêu cầu phản tố của bà A yêu cầu bà N bồi thường 20.000.000 đồng tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại, Hội đồng xét xử xét thấy: Việc bà A cho rằng bà N nói bà A lấy chồng của bà N, qua nhà của bà N ăn trộm của bà N một quyển sổ bảo hiểm và cho rằng có hai người làm chứng là ông Đảm, bà Thu nghe được việc bà N nói. Qua xác minh thì ông Đảm, bà Thu chỉ thừa nhận có nghe bà N nói “lúc tao không có nhà mầy qua nhà tao làm gì, mầy lấy chồng tao hả gì; mầy vô nhà tao ăn cắp một quyển bảo hiểm của tao” (Bút lục 56, 57). Như vậy lời khai của bà A với lời khai của ông Đảm, bà Thu không thống nhất nhau, trong khi đó bà N không thừa nhận có nói nội dung như bà A trình bày. Do đó, không có cơ sở cho rằng bà N nói bà A lấy chồng của bà N, qua nhà của bà N ăn trộm của bà N một quyển sổ bảo hiểm nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu phản tố này của bà A.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do bà A phải bồi thường cho bà N số tiền 5.960.000 đồng nên buộc bà A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 300.000 đồng.

Bà N không phải chịu án phí, hoàn trả cho bà N 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0009078 ngày 22/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩu Kè, tỉnh Trà Vinh.

[7] Xét ý kiến của vị Kiểm sát viên: Như phân tích ở phần trên, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận một phần.

[8] Các đương sự được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 584, 585, 586 và Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị N.

Buộc bà Đặng Thị A bồi thường cho bà Trương Thị N tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xúc phạm là 5.960.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị N yêu cầu bà Đặng Thị A bồi thường tiền mất thu nhập với số tiền 6.000.000 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Đặng Thị A yêu cầu bà Trương Thị N bồi thường tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xúc phạm là 20.000.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu thêm cho bên được thi hành án khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tướng ứng với thời gian chưa thi hành án.

Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bà Đặng Thị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm với số tiền là 300.000 đồng.

Bà Trương Thị N không phải chịu án phí, hoàn trả cho bà N 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0009078 ngày 22/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩu Kè, tỉnh Trà Vinh.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng số 04/2021/DS-ST

Số hiệu:04/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về