TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN CHÂU TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 74/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2021 TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 28 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 06/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2021/QĐXXST-HN ngày 03 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 104/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lý Thị Ngọc B, sinh năm 1981; Địa chỉ: khóm A, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang;
Chỗ ở hiện nay: đường Đ, khóm C, phường H, thị xã T, tỉnh An Giang, vắng mặt và có yêu cầu xét xử vắng mặt;
Bị đơn: Anh Trần Triết K, sinh năm 1979; Địa chỉ: khóm A, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Lý Thị Ngọc B trình bày: Năm 2006, chị B và anh Trần Triết K do mai mối, được gia đình hai bên đồng ý nên tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn T, huyện T (nay là phường L, thị xã T), tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 48/HT ngày 28/02/2006. Thời gian đầu chị B và anh K chung sống hạnh phúc, đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh K không lo cho vợ con. Đến năm 2014 thì anh K bỏ đi và không còn liên lạc với gia đình. Từ đó, chị B và anh K không còn chung sống (sống xa nhau) từ năm 2014 cho đến nay. Ngoài ra, anh K có quan hệ bất chính với nhiều người phụ nữ khác, thường xuyên nhậu nhẹt, gây gỗ nhau, đánh đập chị B. Chị B yêu cầu ly hôn với anh K.
Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị B và anh K có 02 (hai) con chung tên Trần Triết K1, sinh ngày 01/4/2007 và Trần Minh K2, sinh ngày 11/12/2013. Hiện 02 con chung đang sống với chị B, khi ly hôn, chị B yêu cầu tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nguyên đơn đã nộp các tài liệu chứng cứ: Bản tự khai; Bản sao sổ hộ khẩu và giấy chứng minh nhân dân của nguyên đơn; Bản sao giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 48/HT ngày 28/02/2006; Bản sao giấy khai sinh cháu K1 và Khoa.
Tòa án đã tiến hành tống đạt Thông báo thụ lý vụ án số 17/TB-TLVA ngày 08/01/2021 và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số 115/TB-TA ngày 15/3/2021 cho anh Trần Triết K thông qua người thân là bà Nguyễn Thị P (mẹ ruột của anh K) nhận thay và cam kết có báo lại cho anh K biết về việc chị B khởi kiện ly hôn với anh K tại Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang nhưng anh K vẫn vắng mặt theo các lần triệu tập tham gia tố tụng tại Tòa án.
Quá trình tố tụng, Tòa án đã tiến hành thu thập xác minh chứng cứ: Xác minh nơi cư trú của anh Trần Triết K tại Công an phường L, thị xã T; Xác minh tình trạng hôn nhân và con chung giữa chị B và anh K tại Hội liên hiệp phụ nữ phường L, thị xã T; Lấy lời khai của bà Nguyễn Thị P (mẹ ruột của anh K) về tình trạng hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung, cụ thể:
Công an phường L, thị xã T cung cấp: Anh Trần Triết K, sinh năm 1979 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại khóm A, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Anh K thường xuyên vắng mặt ở địa phương nhưng không thuộc trường hợp bỏ địa phương đi. Do không trình báo nên không biết anh K đi đâu, làm gì.
Hội Liên hiệp phụ nữ phường L, thị xã T cung cấp: Về tình trạng hôn nhân, mâu thuẫn giữa chị Lý Thị Ngọc B, sinh năm 1981 và anh Trần Triết K, sinh năm 1979 như thế nào thì Hội phụ nữ không nắm.
Về con chung, giữa chị B và anh K có 02 con chung tên Trần Triết K1, sinh năm 2007 và Trần Minh K2, sinh năm 2013. Hiện các cháu (K1 – K2) đang sống chung và được chị B (mẹ ruột các cháu) chăm sóc, nuôi dưỡng tốt. Chị B làm giáo viên, có thu nhập ổn định và có khả năng lo cho các cháu. Đồng thời, không thấy có biểu hiện đánh đập, ngược đãi các cháu ở địa phương.
Lời khai của bà Nguyễn Thị P (mẹ ruột anh K) cung cấp: Bà là mẹ ruột của anh Trần Triết K và là mẹ chồng của Lý Thị Ngọc B. Khoảng năm 2006, vợ chồng (K – B) do mai mối, được gia đình hai bên đồng ý nên thống nhất tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn T, huyện T (nay là phường L, thị xã T), tỉnh An Giang. Thời gian đầu, vợ chồng (B-K) chung sống hạnh phúc, đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, xảy ra bất đồng quan điểm về tình cảm. Từ đó, vợ chồng (B-K) không còn chung sống với nhau (sống xa nhau) từ năm 2014 cho đến nay và không còn qua lại hay liên lạc cho nhau nữa. Hiện nay, B không còn sống chung với gia đình bà P mà đã sống chung với cha mẹ ruột của B.
Trong thời gian chung sống, vợ chồng (B-K) có 02 con chung tên Trần Triết K1, sinh ngày 01/4/2007 và Trần Minh K2, sinh ngày 11/12/2013. Hiện 02 con chung đang sống và do B chăm sóc, nuôi dưỡng tốt. Các cháu sống với B có đầy đủ điều kiện và được B lo ăn học đàng hoàng. Đồng thời, không nghe thấy các cháu (K1-K2) bị ngược đãi, hành hạ khi sống với B. B làm giáo viên tại trường tiểu học H, thu nhập như thế nào thì không biết nhưng được biết cuộc sống của B đủ lo cho con và ổn định.
Tại phiên tòa, chị B và anh K đều vắng mặt.
Phát biểu của Kiểm sát viên:
Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 97, Điều 191, Điều 195, Điều 196 và Điều 203 BLTTDS năm 2015.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn anh Trần Triết K vắng mặt tại Phiên tòa 02 lần không lý do Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ giữa chị Lý Thị Ngọc B và anh Trần Triết K do mai mối, đi đến tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn 2006 tại UBND phường L. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc sau đó đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống về tình cảm. Đến năm 2014 anh K bỏ đi và không còn liên lạc với gia đình, vợ chồng đã không còn chung sống với nhau từ 2014 cho đến nay.
Xét thấy, hôn nhân giữa chị Lý Thị Ngọc B và anh Trần Triết K được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, cuộc sống hôn nhân của chị B và anh K đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đặt được. Do đó, việc chị B khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh K là có cơ sở, nên chấp nhận.
Về quan hệ con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị Lý Thị Ngọc B và anh Trần Triết K có 02 con chung tên Trần Triết K1, sinh ngày 01/4/2007 và Trần Minh K2, sinh ngày 11/12/2013. Hiện cháu K1, K2 đang sống chung với chị B, khi ly hôn chị B yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu K1, cháu K2 đang sinh sống ổn định cùng với chị B và phát triển tốt, nên yêu cầu được nuôi dưỡng con chung của chị B là có cơ sở chấp nhận.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra để xem xét giải quyết.
Về án phí: Đương sự phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.
Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị:
- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn với anh Trần Triết K của chị Lý Thị Ngọc B.
- Về quan hệ con chung: Giao Trần Triết K1, sinh ngày 01/4/2007 và Trần Minh K2, sinh ngày 11/12/2013 cho chị Lý Thị Ngọc B chăm sóc nuôi dưỡng.
- Về án phí: Đương sự phải chịu án phí HNGĐ sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
*Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền: Chị Lý Thị Ngọc B khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Trần Triết K. Anh K có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Địa chỉ: khóm A, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang. Xét, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Sự vắng mặt của đương sự: Nguyên đơn chị Lý Thị Ngọc B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; Bị đơn anh Trần Triết K được tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
* Về nội dung:
[1] Về quan hệ hôn nhân:
Chị Lý Thị Ngọc B và anh Trần Triết K có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn T, huyện T (nay là phường L, thị xã T theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 48/HT ngày 28/02/2006, hôn nhân giữa chị B và anh K là hợp pháp, phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.
Chị B khai: Thời gian đầu, vợ chồng chị B và anh K chung sống hạnh phúc, đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh K không lo cho vợ con. Đến năm 2014 thì anh K bỏ đi và không còn liên lạc với gia đình. Từ đó, chị B và anh K không còn chung sống (sống xa nhau) từ năm 2014 cho đến nay. Ngoài ra, anh K có quan hệ bất chính với nhiều người phụ nữ khác, thường xuyên nhậu nhẹt, gây gỗ nhau, đánh đập chị B. Chị B yêu cầu ly hôn với anh K.
Bà Nguyễn Thị P (mẹ ruột anh K) cung cấp: Thời gian đầu, vợ chồng chị B và anh K chung sống hạnh phúc, năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, xảy ra bất đồng quan điểm về tình cảm. Từ đó, vợ chồng (B-K) không còn chung sống với nhau (sống xa nhau) từ năm 2014 cho đến nay và không còn qua lại hay liên lạc cho nhau nữa. Hiện nay, B không còn sống chung với gia đình bà P mà đã sống chung với cha mẹ ruột của B.
Vợ chồng có nghĩa vụ chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng hạnh phúc. Cuộc sống vợ chồng của chị B và anh K phát sinh mâu thuẫn từ năm 2014 do bất đồng quan điểm sống về tình cảm, tính tình không hợp nhau và sống xa nhau từ năm 2014 cho đến nay. Tòa án tổ chức hòa giải nhiều lần để tạo điều kiện cho chị B và anh K hàn gắn tình cảm gia đình nhưng anh K vắng mặt.
Tình trạng vợ chồng chị B và anh K đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu tiếp tục duy trì hôn nhân thì khó xây dựng được gia đình hòa thuận, hạnh phúc và bền vững.
Xét, cho chị B ly hôn với anh K là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, chị B và anh K có 02 (hai) con chung tên Trần Triết K1, sinh ngày 01/4/2007 và Trần Minh K2, sinh ngày 11/12/2013. Hai cháu K1 và Khoa hiện do chị B nuôi dạy. Chị B có yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung.
Cháu Bích trực tiếp nuôi dạy cháu K1 và cháu K2 từ năm 2014 cho đến nay. Theo lời bà Nguyễn Thị P (mẹ ruột anh K) cung cấp, chị B chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tốt, chị B làm giáo viên có thu nhập ổn định, có đủ điều kiện nuôi con chung và lo cho hai cháu ăn học đàng hoàng.
Xét, giao cháu K1 và cháu K2 cho chị B trực tiếp nuôi dạy, anh K không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Chị Lý Thị Ngọc B cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Lý Thị Ngọc B trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
[3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị B khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị B phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp. Anh K không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lý Thị Ngọc B.
Chị Lý Thị Ngọc B được ly hôn với anh Trần Triết K.
Giấy chứng nhận kết hôn 48/HT, được Uỷ ban nhân dân thị trấn T, huyện T (nay là phường L, thị xã T, tỉnh An Giang cấp ngày 28/02/2006 cho chị Lý Thị Ngọc B và anh Trần Triết K không còn giá trị pháp lý.
Về con chung: Chị Lý Thị Ngọc B được tiếp tục nuôi dạy 02 (hai) con chung tên Trần Triết K1, sinh ngày 01/4/2007 và Trần Minh K2, sinh ngày 11/12/2013 cho đến khi con trưởng thành và có khả năng lao động. Anh Trần Triết K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị B cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh K trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi các con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
Về án phí hôn nhân sơ thẩm:
Chị Lý Thị Ngọc B phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số TU/2019/0006437 ngày 07 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang; Chị B đã nộp đủ án phí.
Anh Trần Triết K không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.
Thời hạn kháng cáo của chị Lý Thị Ngọc B và anh Trần Triết K là 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 74/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 74/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Châu - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về