Bản án tội trộm cắp tài sản số 166/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 166/2021/HS-ST NGÀY 03/11/2021 TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 207/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 203/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu M, sinh năm 1999, tại Cần Thơ; nơi cư trú: Ấp Đ, xã Đ, huyện T, Thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu N và bà Thị Thạch C; có vợ là Trịnh Tiểu M, có 01 con sinh năm 2016; tiền án: Năm 2019, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 01 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, Trộm cắp tài sản theo Bản án sơ thẩm số 124/2019/HS-ST ngày 09/9/2019, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 01/6/2021; (có mặt)

- Bị hại: Cháu Ngô Xuân T, sinh ngày 26/7/2011; nơi cư trú: Tổ 1, khu phố K, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp: Bà Quách Thị D, sinh năm 1986; nơi cư trú: Tổ 1, khu phố K, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Trần Thanh A – Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV C – Đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Hữu N, sinh năm 1980; nơi cư trú: Ấp Đ, xã Đ, huyện T, Thành phố Cần Thơ.

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Yến N, ông Nguyễn Bá T, bà Quách Thị D.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hữu M và Nguyễn Thị Yến N sống chung với nhau như vợ chồng tại khu phố L, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương..

Khoảng 08 giờ ngày 01/6/2021, do hết tiền tiêu xài nên N rủ M đi cầm điện thoại của N để lấy tiền tiêu xài, M đồng ý. Lúc này, M điều khiển xe mô tô biển số 65H1 – 438.56 chở N đi từ phòng trọ đến phường B, thành phố T để cầm điện thoại. Khi đi ngang qua quán tạp hóa P do bà Quách Thị D làm chủ tại đường số 33 thuộc khu phố K, phường Tân P, thị xã T thì M điều khiển xe dừng lại phía trước quán tạp hóa, sau đó M đi vào bên trong quán tạp hóa để mua Card điện thoại, còn N vẫn ngồi ở trên xe 65H1 – 438.56 đợi M. Khi đi vào trong quán tạp hoá, M gặp Ngô Xuân T (là con của bà D) đang cầm trên tay 01 điện thoại Samsung A50 S có vỏ ốp lưng chơi game. M bảo T bán cho M 01 cái card điện thoại Mobifone 20.000 đồng và 01 gói thuốc lá hiệu Jet, nghe M hỏi mua 01 cái card điện thoại mobifone 20.000 đồng và 01 gói thuốc lá hiệu Jet thì T để điện thoại Samsung A50S có vỏ ốp lưng ở trên nắp bình rượu, gần vị trí M đang đứng (cách khoảng 02 mét) rồi đi vào bên trong cửa hàng để lấy card điện thoại và thuốc lá bán cho M. M nhìn thấy T để điện thoại ở trên nắp bình rượu nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại này. Thực hiện ý định, M dùng tay phải cầm lấy chiếc điện thoại (khi M lấy điện thoại thì T không biết), cùng thời điểm này T cầm trên tay 01 card điện thoại Mobifone mệnh giá 20.000 đồng đi ra vị trí M thì nhìn thấy M đang cầm chiếc điện thoại Samsung A50S có vỏ ốp lưng trên tay phải. M thấy T đi đến vị trí của M nên bảo T là cho M mượn điện thoại để gọi về cho gia đình, T không đồng ý và dùng hai tay giật lấy chiếc điện thoại trên tay phải của M nhưng không được, M cầm điện thoại và bỏ chạy ra vị trí xe 65H1 – 438.56 để khởi động nổ máy xe tẩu thoát, T liền chạy theo phía sau M và tri hô. Khi M bắt đầu khởi động xe thì T dùng tay kéo vào phần cản bảo vệ phía sau xe 65H1 – 438.56 làm M và N ngã xuống đường. Bà Quách Thị D và ông Nguyễn Bá T (là hàng xóm của bà D) nghe tiếng tri hô của T nên chạy ra vị trí của M và N. Lúc này, M dùng 01 bình xịt hơi cay màu đỏ ở túi quần bên phải xịt vào vùng mặt bà D và vùng lưng của ông T (M mang theo bình xịt hơi cay để phòng thân khi có ai đánh M), sau đó M tiếp tục bỏ chạy thì bị bà D, ông T và 01 số người dân (không rõ nhân thân) xung quanh bắt giữ M và giao cho Công an phường Tân Phước Khánh. Công an phường T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: xe mô tô biển số 65H1 – 438.56, 01 điện thoại Samsung A50S có vỏ ốp lưng phía sau, 01 bình xịt hơi cay màu đỏ sọc trên bình xịt hơi cay có chữ PROSECURE.

Ngoài ra, Công an phường T còn tiến hành tạm giữ: 01 Giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Hữu M, 01 cái bóp màu đen ghi chữ PROSECURE, 01 USB hiệu Kingston. Công an phường T lập hồ sơ ban đầu và chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 74/KLTS – TTHS ngày 9/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50S màu đen đã qua sử dụng có giá trị là 2.990.000 đồng. Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 144/KLTS – TTHS ngày 26/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên kết luận: 01 cái ốp lưng của điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A50S đã qua sử dụng có giá trị là 13.000 đồng.

Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A50S là của bà Quách Thị D. Ngày 17/8/2021 và ngày 30/8/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương ra Quyết định xử lý vật chứng số 88, 93 trả lại 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50S màu đen, 01 cái ốp lưng của điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A50S cho bà Quách Thị D, bà D không yêu cầu M bồi thường phần dân sự.

Xe mô tô biển số 65H1 – 438.56 do ông Nguyễn Hữu N (là cha của M) đứng tên chủ sở hữu. M khai nhận: xe 65H1 – 438.56 do ông N mua và cho M mượn để làm phương tiện đi lại. Quá trình điều tra, ông N xác định ngày 01/6/2021 có cho M mượn xe để đi công việc, ông N không biết việc M sử dụng xe mô tô trên để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.

Trong quá trình bà D và ông T bắt giữ M, bà D bị M dùng bình xịt hơi cay xịt vào vùng mặt còn ông T bị M dùng bình xịt hơi cay xịt vào vùng lưng. Bà D và ông T đều không bị thương tích nên không yêu cầu xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 211/CT-VKS.TU ngày 11 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu M về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu M phạm tội Trộm cắp tài sản.

Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, i khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu M mức hình phạt từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự do bị hại không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bình xịt hơi cay màu đỏ sọc trên bình xịt hơi cay có chữ PROSECURE; Trả cho Nguyễn Hữu M 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Hữu M, 01 cái bóp da màu đen; trả cho ông Nguyễn Hữu N 01 xe mô tô biển số 65H1-438-56.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày ý kiến: Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, đảm bảo quyền lợi của bị hại, bị cáo. Bị hại Ngô Xuân T đã trình bày đúng sự việc khách quan và bị cáo cũng thừa nhận. Do đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại thống nhất với nội dung cáo trạng về tội danh cũng như khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo có 01 tiền án, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị hại cũng đã được thu hồi. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện sự khoan hồng của nhà nước.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Bị cáo thống nhất với nội dung cáo trạng và không có ý kiến gì trong phần tranh luận. Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái và chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về việc tham gia phiên tòa của những người tham gia tố tụng: Bị hại đã được triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt và có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, người làm chứng vắng mặt. Quá trình điều tra, lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng không mâu thuẫn với nhau và với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị hại cũng không có yêu cầu gì đối với bị cáo. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát, bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đồng ý xét xử vắng mặt bị hại, người làm chứng. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại, người làm chứng theo quy định tại Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 01/6/2021, tại khu phố K, phường T, thị xã T, Nguyễn Hữu M đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung A50S có ốp lưng của cháu Ngô Xuân T có tổng trị giá là 3.003.000 đồng. Sau khi bị hại phát hiện, bị cáo đã có hành vi dùng bình xịt hơi cay tấn công những người truy đuổi nhằm tẩu thoát. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản, sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì động cơ tư lợi, tham lam nên đã cố ý phạm tội. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 29/12/2020 nhưng lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo chiếm đoạt tài sản của cháu Ngô Xuân T (sinh ngày 26/7/2011 – 10 tuổi) là thuộc trường hợp phạm tội đối với người dưới 16 tuổi là các tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, nhận thấy bị cáo vừa chấp hành xong án phạt tù nhưng lại tiếp tục phạm tội thể hiện sự coi thường, bất chấp pháp luật nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại là có cơ sở.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bình xịt hơi cay màu đỏ sọc trên bình xịt hơi cay có chữ PROSECURE là công cụ thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Hữu M, 01 cái bóp da màu đen, 01 xe mô tô biển số 65H1-438-56 là tài sản cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho chủ sở hữu.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu M phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, i khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu M 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/6/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bình xịt hơi cay màu đỏ sọc, trên bình có chữ PROSECURE;

Trả cho Nguyễn Hữu M 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Hữu M, 01 cái bóp da màu đen. Trả cho ông Nguyễn Hữu N 01 xe mô tô Yamaha Sirius biển số 65H1-438-56, màu đen, số khung 33740LY076283, số máy E32VE266242, xe không tem nhãn, không bửng, không kính chiếu hậu phải, không kiểm tra máy.

(Thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/11/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Hữu M phải chịu số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kê tư ngay tuyên án. Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án tội trộm cắp tài sản số 166/2021/HS-ST

Số hiệu:166/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về