TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 03/2024/ HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 91/2023/TLST-HNGĐ ngày 06/10/2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2024/QĐST-HNGĐ ngày 11/01/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Ngân Thị N, sinh năm 2000;
Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Xóm P, xã C, huyện K, tỉnh C. (Có mặt)
- Bị đơn: Anh Lương Văn T, sinh năm 1995;
Nơi đăng ký HKTT và nơi cư trú: Xóm P, xã C, huyện K, tỉnh C. (Vắng mặt không có lý do)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Lương Thị B, sinh năm 1968. Địa chỉ: Xóm P, xã C, huyện K, tỉnh C. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 19/9/2023 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án nguyên đơn Ngân Thị N trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lương Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện K, tỉnh C ngày 10/01/2020, việc đăng ký do hai bên tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống ở nhà anh T tại xóm P, xã C, huyện K, C. Thời gian đầu anh chị chung sống hòa thuận, không có mâu thuẫn gì. Từ giữa năm 2021, chị N và anh T thường xuyên xảy ra cãi vã, mâu thuẫn nhiều lần. Mâu thuẫn của anh chị đã được hai bên gia đình hoà giải nhiều lần để vợ chồng đoàn tụ nhưng không thành. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh T, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên đã làm đơn yêu cầu Toà án cho chị được ly hôn với anh T.
- Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung tên là: Lương Tuấn V, sinh ngày 17/12/2019. Hiện nay, cháu Tuấn V đang ở với ông bà nội là bố mẹ của anh T, sau khi ly hôn tôi tự nguyện để anh T tiếp tục nuôi dưỡng con chung và tôi không phải cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung, nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn Lương Văn T Tòa án đã tiến hành triệu tập anh Lương Văn T nhiều lần nhưng anh đều trốn tránh, vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm, tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Để có cơ sở giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ bằng việc đến nơi cư trú của anh T để xác minh. Tại biên bản lấy lời khai bà Lương Thị B, sinh năm 1968 (mẻ đẻ của anh Lương Văn T) xác nhận: Gia đình đã nhận được giấy triệu tập của Tòa án triệu tập Lương Văn T đến Tòa để giải quyết việc ly hôn và gia đình có thông báo cho anh T biết. Nhưng do anh T bận đi làm nên không xin nghỉ để về được, hiện nay gia đình chỉ biết anh T đi làm công ty nhưng không biết địa chỉ cụ thể.
Tại phiên tòa:
Chị Ngân Thị N giữ nguyên yêu cầu như đơn khởi kiện, xác định vợ chồng đã không còn tình cảm với nhau nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn anh Lương Văn T. Sau khi ly hôn, anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là cháu Lương Tuấn V và chị cấp dưỡng là 1.000.000 đồng/tháng đến khi trưởng thành. Các vấn đề khác chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lương Thị B là mẹ đẻ của anh Lương Văn T cho biết hiện nay T đi làm công ty không về được, gia đình đã báo cho T biết về việc chị N xin ly hôn. Việc N xin ly hôn với T bà không có ý kiến gì, để cho T tự quyết định. Hai vợ chồng T đi làm xa nên tôi là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lương Tuấn V từ nhỏ đến nay. Nếu N và T ly hôn thì tôi yêu cầu chị N phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo và chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về hướng giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, 147, 227, 228, 271 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tên xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ngân Thị N.
Cho chị Ngân Thị N được ly hôn với anh Lương Văn T;
- Về con chung: Giao cháu Lương Tuấn V, sinh ngày 17/12/2019 cho anh Lương Văn T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (18 tuổi). Chị N có nghĩa vụ cấp dưỡng là 1.000.000 đồng/tháng đến khi cháu V trưởng thành (18 tuổi).
- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét;
- Về án phí: Chị Ngân Thị N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và các chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng dân sự:
Chị Ngân Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án cho ly hôn với anh Lương Văn T, do đó quan hệ pháp luật trong vụ án này là tranh chấp hôn nhân và gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Lương Văn T có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại xóm P, xã C, huyện K, tỉnh C. Do đó Tòa án nhân dân huyện T thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự:
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Lương Văn T được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Lương Văn T là phù hợp quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án:
* Về quan hệ hôn nhân: Chị Ngân Thị N và anh Lương Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 10/01/2020 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện K, tỉnh C. Vì vậy, hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Chị N xác định nguyên nhân dẫn đến ly hôn là do trong cuộc sống chung vợ chồng của anh chị xảy ra nhiều mâu thuẫn. Mặc dù đã được gia đình hòa giải nhưng không cải thiện được mối quan hệ và hiện nay, anh chị đã ly thân từ tháng 11/2022. Từ khi ly thân, chị N về nhà ngoại sinh sống anh T không hề hỏi thăm hay có ý hàn gắn lại mối quan hệ tình cảm. Hiện nay, anh T đi đâu và làm gì không báo cho chị biết.
Theo Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:
“1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.
Hội đồng xét xử nhận thấy, giữa chị N và anh T đã xảy ra mâu thuẫn trong hôn nhân và thực tế đã không còn chung sống cùng nhau dẫn đến hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mâu thuẫn xảy ra kéo dài nhưng chị N, anh T không có biện pháp để hàn gắn mối quan hệ này và mặc dù anh T biết việc chị N xin ly hôn với anh nhưng anh đã thờ ơ, không quan tâm và cố tình trốn tránh, không đến Tòa án để nêu ý kiến của mình và cũng không mong muốn Tòa án tiến hành hòa giải. Căn cứ quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh T để các bên sớm ổn định cuộc sống riêng.
* Về con chung: Chị Ngân Thị N và anh Lương Văn T có 01 con chung tên là: Lương Tuấn V, sinh ngày 17/12/2019. Hiện nay, cháu V đang ở nhà anh T do bà Lương Thị B (mẹ anh T) trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Xét thấy chị N hiện nay không có nơi cư trú ổn định, sau khi ly thân phải sống nhờ nhà ngoại, hơn nữa chị N đang đi làm công ty không có đủ điều kiện chăm sóc cho cháu V và nguyện vọng của chị N cũng là giao con cho anh T nuôi dưỡng, chăm sóc. Chị T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung là 1.000.000 đồng/tháng đến khi cháu V trưởng thành (18 tuổi). Xét thấy hiện nay cháu Lương Tuấn V đang sinh sống, học tập ổn định tại xóm P, xã C, huyện K, C và bà Lương Thị B cũng có nguyện vọng chăm sóc cháu V nên Hội đồng xét xử giao cháu Lương Tuấn V cho anh T là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng để đảm bảo cho cháu có môi trường sống và phát triển ổn định.
* Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ngân Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chị Ngân Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
[6] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các khoản 1 Điều 51; Điều 53; Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Ngân Thị N.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Ngân Thị N được ly hôn với anh Lương Văn T.
2. Về con chung:
Giao cho anh Lương Văn T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lương Tuấn V, sinh ngày 17/12/2019 đến tuổi trưởng thành hoặc đến khi có Bản án, quyết định khác của Tòa án thay thế. Chị Ngân Thị N có nghĩa vụ cấp dưỡng 1.000.000 đồng/tháng đến khi cháu V trưởng thành (18 tuổi), phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời điểm cấp dưỡng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Khi xét thấy cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung.
3. Về tài sản chung, vay nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Toà án không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Chị Ngân Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ, theo biên lai số 0003088 ngày 06/10/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Ngoài ra chị N còn phải chịu án phí của người có nghĩa vụ cấp dưỡng là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) sung công quỹ Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Chị N, bà B có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tên án. Anh T vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày bản án được giao hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án số về ly hôn, tranh chấp nuôi con 03/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 03/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về