Bản án 99/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 99/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 504/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị T, sinh năm 1992; thường trú: Xóm K, xã T, huyện T, tỉnh N; tạm trú: ½ khu phố Đ, phường Đ, thành phố D, tỉnh B. Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1986; thường trú: Xóm K, xã T, huyện T, tỉnh N; tạm trú: ½ khu phố Đ, phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Hoàng Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị T và anh Phạm Văn T sau thời gian tìm hiểu, tiến đến hôn nhân, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh N theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 68/2013 quyển số 01 cấp ngày 30/9/2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại xóm K, xã T, huyện T, tỉnh N được 01 năm. Đến năm 2014, vợ chồng chuyển về chung sống tại phường Đ, thành phố D, tỉnh B. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh T không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Ngoài ra, vợ chồng còn mâu thuẫn về kinh tế. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải. Chị T đã nhiều lần tha thứ, tạo điều kiện cho vợ chồng đoàn tụ lo cho các con nhưng anh T không thay đổi. Nay nguyên đơn xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Phạm Văn T.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Hoàng Tuệ Nhi, sinh ngày 17/9/2015. Sau khi ly hôn, chị T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai, anh Phạm Văn T trình bày:

Thống nhất lời trình bày của nguyên đơn về thời gian, điều kiện kết hôn và sinh sống của vợ chồng. Vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, không cùng quan điểm sống nên vợ chồng xảy ra cãi vã và sống ly thân từ năm 2018. Tuy nhiên, anh T không đồng ý ly hôn vì anh thương con còn nhỏ.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung Phạm Hoàng Tuệ N, sinh ngày 17/9/2015, hiện nay, con chung đang sống cùng với chị T. Anh T không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung và nợ chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị T và anh T do Tòa án tiến hành ngày 10/8/2020, chính quyền địa phương cung cấp thông tin như sau: Hội Liên hiệp phụ nữ phường Đông Hòa không nhận được đơn thư hay trình báo gì về việc chị Hoàng Thị T và anh Phạm Văn T có xảy ra mâu thuẫn trong gia đình. Hội Liên hiệp phụ nữ phường Đông Hòa không biết được mâu thuẫn giữa vợ chồng cũng như công việc, thu nhập hay con chung của chị T và anh T nên không cung cấp thông tin được cho Tòa án.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Sự chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật liên quan.

Về quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Chị T và anh T chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn, đã ly thân từ năm 2018, con chung đang sinh sống cùng với chị T, hiện nay, cháu còn nhỏ. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

Về tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Năm 2013, chị Hoàng Thị T và anh Phạm Văn T tự nguyện tìm hiểu tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh N theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 68/2013 quyển số 01 cấp ngày 30/9/2013 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[2] Nguyên đơn xác định, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn, do bị đơn không có trách nhiệm với gia đình. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Vì vậy nguyên đơn và bị đơn đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng mâu thuẫn không cải thiện được. Anh Phạm Văn T cũng xác nhận, vợ chồng chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn nên đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Bị đơn và nguyên đơn làm đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Do đó, Tòa án không tiến hành hòa giải đoàn tụ quan hệ hôn nhân của vợ chồng được.

[3] Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Căn cứ vào lời khai của nguyên đơn cho thấy tình trạng hôn nhân của vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Hoàng Thị T và anh Phạm Văn T có 01 con chung Phạm Hoàng Tuệ N, sinh ngày 17/9/2015. Hiện con chung đang ở cùng với chị T. Sau khi ly hôn, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng cần phải xem xét về mọi mặt của con chưa thành niên. Từ trước đến nay, chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, con chung, cháu vẫn phát triển tốt. Cháu Nhi hiện nay còn nhỏ, cần sự quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng của mẹ. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị T, giao cháu N cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Hoàng Thị T không yêu cầu anh Phạm Văn T phải cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của chị T nên chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[7] Từ những phân tích nêu trên, Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị của đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương là có căn cứ.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 55, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị T.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị T được ly hôn với anh Phạm Văn T.

- Về con chung: Anh Phạm Văn T giao con chung Phạm Hoàng Tuệ N, sinh ngày 17/9/2015 cho chị Hoàng Thị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, anh Phạm Văn T và chị Hoàng Thị T đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hoàng Thị T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0040683 ngày 09/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:99/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về