TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 99/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 340/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019, về việc “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2019, quyết định hoãn phiên tòa số 50/2019/QĐST-HNGĐ ngày 18/10/2019 và số 58/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05/11/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 19…; địa chỉ cư trú tại số nhà …, tổ 5, ấp Phú Hợp A, xã Phú Bình, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (nơi làm việc tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai).
Bị đơn: Bà Nguyễn Bảo Vi N, sinh năm 19…; nơi cư trú tại tổ 8, ấp Phú Tân, xã Phú Bình, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
(Ông Nguyễn Hữu T, bà Nguyễn Bảo Vi N có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 09 tháng 7 năm 2019, ý kiến trình bày của nguyên đơn trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Hữu T trình bày như sau:
Trong năm 2018 Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai thụ lý giải quyết sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình, nguyên đơn khởi kiện về ly hôn đối với bà Nguyễn Bảo Vi N. Theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 72 ngày 20 tháng 4 năm 2018 quyết định: Công nhận thuận tình ly hôn của các đương sự Nguyễn Hữu T và Nguyễn Bảo Vi N; bà N là người trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Gia H, sinh ngày …, nguyên đơn cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng (tính từ tháng 5 năm 2018). Tại phiên tòa, nguyên đơn không rút yêu cầu khởi kiện. Nguyên đơn và bị đơn không tự thỏa thuận được với nhau giải quyết tranh chấp về người trực tiếp nuôi con, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con (nguyên đơn được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu bị đơn phải cấp dưỡng nuôi con). Lý do phải thay đổi người trực tiếp nuôi con là do bị đơn đang ở với cha mẹ của bị đơn tại ấp Phú Tân, xã Phú Phú Bình, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai và gia đình của bị đơn không tạo điều kiện để nguyên đơn được thăm con chăm sóc con, bị đơn không có công việc ổn định, không có hợp đồng lao động, không bảo đảm kinh tế cũng như thời gian chăm sóc con. Đối với nguyên đơn là cán bộ cấp xã, đủ điều kiện kinh tế để nuôi dưỡng con, đang ở cùng gia đình với mẹ nguyên đơn nên có nhiều thời gian chăm sóc con.
* Trong thời gian chuẩn bị xét xử vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Bảo Vi N trình bày ý kiến:
Bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì nguyên đơn trình bày ý kiến không đúng thực tế. Bị đơn lao động, làm thuê có thu nhập ổn định, tiền thu nhập hợp pháp mỗi tháng của bị đơn cao hơn thu nhập của nguyên đơn, về thời gian hợp đồng lao động có từ trước thời gian bị đơn và nguyên đơn ly hôn, đến nay chưa chấm dứt hợp đồng lao động; đối với nguyên đơn đang phải đi học lý luận chính trị tại Thành phố Hồ Chí Minh thì không thể làm người trực tiếp nuôi con tốt hơn bị đơn.
Từ ngày có quyết định ly hôn của Tòa án đến nay, ông T thực hiện quyền của người cha đối với con bình thường. Bị đơn làm trách nhiệm chăm sóc, nuôi con ăn học tốt, có đủ điều kiện để nuôi con, còn nguyên đơn có tính thích uống rượu, bia, nếu để ông T trực tiếp nuôi dưỡng con thì không tốt về tinh thần, sức khỏe, đạo đức của con. Hiện nay con đang đi học, cư trú ổn định với bị đơn, nguyên đơn không có đủ điều kiện nuôi dưỡng con so với bị đơn. Yêu cầu của ông T là không đúng với quy định của pháp luật.
* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến như sau:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; đối với bị đơn có lúc không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ các Điều 81, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 3 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 203, Điều 205, Điều 235, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án.
Đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Hữu T về yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; ông Nguyễn Hữu T phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm.
* Về các tình tiết đã rõ, do đương sự hai bên thống nhất ý kiến, thừa nhận được coi là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Nguyên đơn, bị đơn đều là người đang cư trú có chỗ ở hợp pháp tại nhà của cha mẹ; các đương sự có thu nhập ổn định có đủ tiền nuôi dưỡng con; ông Nguyễn Hữu T đang phải học cao cấp lý luận chính trị tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
[1] Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa các đương sự và quan hệ pháp luật có tranh chấp trong vụ án:
Bị đơn có nơi cư trú tại xã Phú Bình, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Nguyên đơn ông Nguyễn Hữu T khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn với bên bị đơn là bà Nguyễn Bảo Vi N. Đây là quan hệ pháp luật “tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo quy định tại khoản 3 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Tại quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 72/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai đã công sự thuận tình ly hôn giữa ông Nguyễn Hữu T và bà Nguyễn Bảo Vi N và bà N là người trực tiếp nuôi dưỡng người con nêu trên.
Nguyên đơn có ý kiến là sau khi ly hôn, trong quá trình nuôi dưỡng con thì bị đơn Nhi không tạo điều kiện để nguyên đơn được thăm con, chăm sóc con nhưng nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ chứng minh, bên bị đơn không đồng ý với ý kiến nguyên đơn trình bày. Ông T cũng không có chứng cứ chứng minh bị đơn không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Tòa án xác minh tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện Tân Phú là nơi nguyên đơn làm việc, được lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã P xác nhận ông Nguyễn Hữu T đang phải học cao cấp lý luận tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp ý kiến trình bày của ông T và bà N.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Từ ngày có quyết định ly hôn, nguyên đơn đến thăm nom, chăm sóc con bình thường và gửi tiền cấp dưỡng nuôi con theo ý kiến thỏa thuận của các đương sự; bị đơn đã nuôi dưỡng con phát triển bình thường, con của các đương sự là Nguyễn Gia H đang học tập, cư trú ổn định với bị đơn, bị đơn đang có điều kiện nuôi dưỡng con tốt hơn nguyên đơn về mức thu nhập, thời gian quản lý, chăm sóc, giáo dục con.
Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu T đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi là phù hợp quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, điểm b khoản 2 Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về án phí: Yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hữu T không được Hội đồng xét xử chấp nhận, ông T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm giải quyết tranh chấp trong vụ án hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 1 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[4] Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn là phù hợp các chứng cứ vụ án và các quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 147, Điều 235, khoản 1 Điều 273, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 1 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là ông Nguyễn Hữu T về yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con đối với bên bị đơn là bà Nguyễn Bảo Vi N.
2. Về án phí: Nguyên đơn ông Nguyễn Hữu T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, tiền án phí được trừ vào tiền tạm ứng án phí nguyên đơn đã nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 008341 ngày 22 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
3. Ông Nguyễn Hữu T, bà Nguyễn Bảo Vi N có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 99/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Số hiệu: | 99/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về