TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 99/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hoà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 411/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 97/2019/HPT-ST ngày 18 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Mai Thị L, sinh năm 1977
Địa chỉ: Thôn ĐC2, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972
Địa chỉ: Thôn ĐC2, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/10/2019, lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Mai Thị L trình bày:
Bà và ông Nguyễn Văn H kết hôn năm 1995 đến năm 1998 đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thị xã N. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại xã Ninh P và có 03 con chung tên Nguyễn Mai Duy H, sinh ngày 09/7/1996, Nguyễn Mai Ngọc H, sinh ngày 19/12/1999 và Nguyễn Mai Quỳnh N, sinh ngày 24/02/2005.
Trong cuộc sống vợ chồng bà thường xuyên phát mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, ông H thường xuyên ăn nhậu rồi về nhà gây sự đánh đập bà và các con. Bà đã nhiều lần bỏ qua cho ông H cơ hội sửa chữa để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nhưng ông vẫn không thay đổi tính cách. Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng ngày càng trầm trọng không hàn gắn được. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, thực tế bà và ông H không còn sống chung từ khoảng tháng 6 năm 2019 cho đến nay nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn H. Về con chung, bà và ông H có 03 con chung, hai cháu Nguyễn Mai Duy H, Nguyễn Mai Ngọc H đã trưởng thành bà không yêu cầu giải quyết, khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi con chung Nguyễn Mai Quỳnh N đến tuổi trưởng thành. Bà không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung bà L không yêu cầu tòa án giải quyết.
* Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn H: Tại bản tự khai ngày 18/10/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn H trình bày: Về quan hệ hôn nhân và con chung ông thống nhất như lời khai của bà Mai Thị L. Ông thừa nhận do vợ chồng tính tình không hợp nhau nên hay xảy ra tranh cãi, khi vợ chồng mâu thuẫn ông có uống rượu say về nhà đánh đập vợ. Do đó, từ tháng 6 năm 2019 cho đến nay vợ chồng ông không còn sống chung với nhau. Tuy nhiên, ông cho rằng những mâu thuẫn giữa hai vợ chồng trong thời gian vừa qua là do chưa thực sự hiểu nhau, ông vẫn thương yêu vợ con nên mong bà L suy nghĩ lại cho ông cơ hội sửa sai, vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nên ông không đồng ý ly hôn. Về con chung, ông H không đồng ý ly hôn nên không có ý kiến gì thêm. Về tài sản chung, nợ chung ông H không yêu cầu tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định. Đối với bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia phiên tòa nhưng ông cố tình trốn tránh không có mặt tại phiên tòa nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình do đó tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông H là đúng theo quy định của pháp luật.
Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã thực hiện việc thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định.
Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn; Về con chung, giao cháu Nguyễn Mai Quỳnh N, sinh ngày 24/02/2005 cho bà Mai Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành; về cấp dưỡng nuôi con do nguyên đơn không yêu cầu nên không xem xét; Về tài sản chung, nợ chung: Bà Mai Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; Tòa án đã tiến hành thủ tục tống đạt hợp lệ, do đó Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng với qui định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Bà Mai Thị L và ông Nguyễn Văn H tự nguyện kết hôn năm 1995, đến năm 1998 đăng ký kết hôn tại UBND xã N, thị xã N và đã được Ủy ban nhân dân xã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 46 ngày 26/10/1998. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông H là hợp pháp.
Trong quá trình chung sống, giữa bà L và ông H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến tranh cãi, do ông H thiếu trách nhiệm với gia đình, hay ăn nhậu về nhà đánh đập vợ con, bà L đã nhiều lần bỏ qua để ông H thay đổi tính cách vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con cái nhưng ông vẫn không thay đổi nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Theo kết quả xác minh tại địa phương ông bà đang sinh sống cho thấy: Quá trình chung sống giữa bà L và ông H thường xuyên phát sinh mâu thuẫn dẫn đến kình cãi, bạo lực gia đình, hiện tại hai ông bà cũng không còn sống chung với nhau từ khoảng tháng 6 năm 2019 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy, xuất phát từ những bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng làm rạn nứt tình cảm, việc quan tâm, chăm sóc lẫn nhau không còn và đã đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Vì vậy, có duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Mai Thị L đối với ông Nguyễn Văn H.
[3] Về con chung: Bà Mai Thị L và ông Nguyễn Văn H có 03 con chung tên Nguyễn Mai Duy H, sinh ngày 09/7/1996, Nguyễn Mai Ngọc H, sinh ngày 19/12/1999 và Nguyễn Mai Quỳnh N, sinh ngày 24/02/2005. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Mai Thị L yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Mai Quỳnh N đến tuổi trưởng thành. Bà L không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Kể từ thời điểm bà L và ông H không còn sống chung, cháu N đang do bà L trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, sau khi ly hôn việc giao con chưa thành niên cho người nào nuôi dưỡng, giáo dục là nhằm mục đích giúp con chưa thành niên phát triển tốt cả về tinh thần lẫn thể chất. Nguyên đơn có đủ điều kiện nuôi con và thực tế đang trực tiếp nuôi con chung. Mặt khác, cháu N cũng có nguyện vọng nếu bố mẹ ly hôn cháu xin được ở với mẹ là bà Mai Thị L. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Nguyễn Mai Quỳnh N, sinh ngày 24/02/2005 cho bà Mai Thị L trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Trong quá trình nuôi con nếu gặp khó khăn bà L có quyền làm đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con để đảm bảo quyền lợi cho con chung.
[4] Về tài sản chung: Bà Mai Thị L không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.
[5] Về nợ chung: Bà Mai Thị L không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.
[6] Về án phí: Bà Mai Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Mai Thị L được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.
2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Mai Quỳnh N, sinh ngày 24/02/2005 cho bà Mai Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Bà Mai Thị L không yêu cầu ông Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.
3. Về tài sản chung: Bà Mai Thị L không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.
4. Về nợ chung: Bà Mai Thị L không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.
5. Về án phí: Bà Mai Thị L phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tại biên lai số AA/2018/0008876 ngày 15 tháng 10 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ninh Hòa. Như vậy bà Mai Thị L đã nộp đủ án phí.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Quyền kháng cáo: Bà Mai Thị L có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 99/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 99/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về