Bản án 99/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 99/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 1016/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 7 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2019/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 1977; hộ khẩu thường trú: Số 77/1 khu phố T, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Ông Lương Văn T, sinh năm 1971; hộ khẩu thường trú: Ắp Bà Lầy 1, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang; tạm trú: số 84/1 khu phố T, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình t tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc A trình bày: Bà Nguyễn Thị Ngọc A và ông Lương Văn T tự nguyện tìm hiểu, tiến đến quan hệ hôn nhân và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương vào năm 2007. Sau khi về chung sống với nhau được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, lớn tiếng với nhau nên bà A đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Lương Văn T. Tuy nhiên, bà A có nguyện vọng để vợ chồng có cơ hội hàn gắn tình cảm và đoàn tụ cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc; đồng thời ông T hứa sẽ thay đổi nên đã tự nguyện rút đơn khởi kiện nhưng sau đó cuộc sống vợ chồng không thể hàn gán, mâu thuẫn vẫn tiếp diễn. Hiện nay, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và mục đích hôn nhân không đạt được nên bà A yêu cầu được ly hôn với ông Lương Văn T.

Về con chung: Trong quá trình chung sống giữa bà A và ông T có 02 con chung tên Lương Gia H, sinh ngày 13/11/2008 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 29/10/2011.

Sau khi ly hôn, bà A yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung tên Lương Gia H, sinh ngày 13/11/2008 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 29/10/2011.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà A tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Lương Văn T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và các giấy triệu tập ông T đến Tòa án tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, ông T đều vắng mặt không rõ lý do.

- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và nội dung giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà A chấp hành đúng pháp luật tố tụng, ông T không chấp hành đúng pháp luật tố tụng.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét, nhận thấy yêu cầu khởi kiện của bà A là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Bà Nguyễn Thị Ngọc A khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lương Văn T, đồng thời ông T đăng ký tạm trú và sinh sống tại địa chỉ 84/1 khu phố T, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương (theo biên bản xác minh ngày 19/8/2019) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2]. Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Thị Ngọc A yêu cầu được ly hôn với ông Lương Văn T và yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3]. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Lương Văn T được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng và tham gia phiên tòa xét xử lần thứ 2 nhưng đều văng mặt không rõ lý do; nguyên đơn bà A có đơn đê nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bà A và ông T, xem như ông T từ bỏ quyền chứng minh.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc A và ông Lương Văn T tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương vào năm 2007 nên quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông T là hợp pháp.

Theo biên bản xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện trong quá trình chung sống với nhau, chính quyền địa phương không nắm được tình hình mâu thuẫn giữa bà A và ông T do không ai trình báo. Tuy nhiên, theo Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hôn nhân gia đình số 35/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An thể hiện bà A đã khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Lương Văn T nhưng bà A tự nguyện rút đơn khởi kiện. Qua đó cho thấy, bà A có nguyện vọng vợ chồng hàn gắn tình cảm và xây dựng gia đình hạnh phúc nhưng tình cảm không thể hàn gắn nên bà A tiếp tục nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông T.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà A và ông T đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Ngọc A được ly hôn với ông Lương Văn T.

[2.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống, bà A và ông T có 02 con chung tên Lương Gia H, sinh ngày 13/11/2008 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 29/10/2011. Bà A yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng 02 con chung và tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Do cháu H và cháu H đã trên 07 tuổi nên trong quá trình giải quyết vụ án Toà án đã làm việc với cháu H và H theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Qua làm việc, cháu H và H xác định trường hợp cha và mẹ ly hôn, các cháu có nguyện vọng sống với bà Nguyễn Thị Ngọc A; đồng thời hiện nay bà A đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H và H. Do đó, Hội đồng xét xử giao 02 con chung Lương Gia H, sinh ngày 13/11/2008 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 29/10/2011 cho bà A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và ghi nhận sự tự nguyện của bà A về việc không yêu cầu ông Tiến cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp sau này các đương sự có tranh chấp về người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung cũng như mức cấp dưỡng nuôi con thì có thể yêu cầu Toà án giải quyết bằng vụ án khác theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[4] Về án phí sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Ngọc A phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, 56 và Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc A đối với ông Lương Văn T về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Ngọc A được ly hôn với ông Lương Văn T.

- Về con chung: Giao 02 con chung tên Lương Gia H, sinh ngày 13/11/2008 và Nguyễn Gia H, sinh ngày 29/10/2011 cho bà A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của bà A không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Ngọc A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp theo Biên lai thu số 0035735 ngày 22/7/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2019/HNGĐ-ST ngày 18/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:99/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về