TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BỀN TRE
BẢN ÁN 99/2019/DS-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 110/2019/TLST-DS ngày 25 tháng 4 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 239/2019/QĐXX-ST ngày 02 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1969.
Bà Lê Thị T, sinh năm 1972.
Cùng địa chỉ: Tổ NDTQ số 5, ấp M, xã L, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Kiệt: Bà Lê Thị T, theo văn bản ủy quyền ngày 26/7/2019.
2.Bị đơn:
Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1966;
Địa chỉ: 298, ấp MC, xã P, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
3.Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Trần Thị Thu T1, sinh năm 1971.
Địa chỉ: 298, ấp MC, xã P, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà T có mặt; nguyên đơn ông Kt, bị đơn ông Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà T1 vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 11/4/2019 và quá trình xét xử nguyên đơn và người đại theo ủy quyền của nguyên đơn ông có lời trình bày:
Từ tháng 7/2014, vợ chồng bà có bán thức ăn chăn nuôi cho ông Trần Văn Đ và bà Trần Thị Thu T1. Việc mua bán theo hình thức gói đầu, mỗi đợt bán heo thì vợ chồng bị đơn trả tiền cho vợ chồng bà. Đến ngày 27/9/2017, vợ chồng bị đơn bán heo không còn nuôi nữa. Hai bên tiến hành kết nợ ngày 09/4/2019, vợ chồng bị đơn còn nợ tiền thức ăn là 140.938.000đồng tuy nhiên sau khi kết nợ thì ông Đ chỉ trả được 8.000.000đồng, hiện còn thiếu số tiền 132.938.000đồng.
Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu vợ chồng bị đơn có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn số nợ 132.938.000đồng, trả làm một lần và không yêu cầu tính lãi.
Tại bản khai ngày 26/7/2019 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 26/7/2019, bị đơn là ông Trần Văn Đ có lời trình bày:
Hiện ông còn nợ thiền thức ăn của đại lý Thúy Kiệt xã Long Mỹ số tiền 132.938.000đồng nhưng do bị lỗ heo kinh tế khó khăn phải đi làm mướn kiếm sống, số tiền nợ ông hứa sẽ trả dần, nếu có điền kiện sẽ trả nhiều hơn.
Bà Trần thị Thu T1 vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án nên không có lời trình bày:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
Ông Nguyễn Văn K vắng mặt nhưng có ủy quyền hợp lệ cho người đại diện tham gia tố tụng vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt đương sự là đúng quy định pháp luật.
Ông Trần Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm nhưng có đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông là đúng qui định.
Bà Trần Thị Thu T1 vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đương sự.
Về nội dung:
Từ tháng 7/2014, vợ chồng nguyên đơn có bán thức ăn chăn nuôi cho bị đơn. Việc mua bán theo hình thức gói đầu, mỗi đợt bán heo thì vợ chồng bị đơn trả tiền cho vợ chồng nguyên đơn, đến ngày 27/9/2017, vợ chồng bị đơn bán heo không còn nuôi nữa. Hai bên tiến hành kết nợ ngày 09/4/2019, bị đơn còn nợ tiền thức ăn là 140.938.000đồng tuy nhiên sau khi kết nợ thì bị đơn chỉ trả được 8.000.000đồng. Bị đơn thừa nhận hiện nợ thiền thức ăn của đại lý Thúy Kiệt xã Long Mỹ số tiền 132.938.000đồng nhưng do bị lỗ heo kinh tế khó khăn phải đi làm mướn kiếm sống, không có khả năng trả nợ.
Do hai bên không thống nhất về quyền và nghĩa vụ đối với hợp đồng mua bán tài sản vì vậy phát sinh tranh chấp.
Xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và lời trình bày của nguyên đơn, ý kiến về việc nhận nợ của bị đơn.
Căn cứ khởi kiện của nguyên đơn là “Giấy xác nhận công nợ” ngày 09/4/2019, có bút lục 06. Qua xem nội dung thể ông Trần Văn Đ còn nợ đại lý Thúy Kiệt (Do vợ chồng nguyên đơn làm chủ) số tiền 132.938.000đồng, giấy xác nhận có chữ ký của ông Trần Văn Đ. Tại bản khai ngày 26/7/2019 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 26/7/2019, bị đơn là ông Trần Văn Đ cũng thừa nhận còn nợ tiền thức ăn của đại lý Thúy Kiệt xã Long Mỹ số tiền 132.938.000đồng, đây là chứng cứ nguyên đơn không cần phải chứng minh. Hội đồng xét xử nhận thấy, hợp đồng mua bán đã hoàn thành, do bị đơn không cung cấp chứng cứ để xác định có sự nhầm lẫn hay bị lừa dối, đe dọa khi giao kết hợp đồng và cũng không có căn cứ để cho rằng bị đơn tại thời điểm xác lập hợp đồng, ký giấy nhận nợ không làm chủ được hành vi của bản thân.
Từ những phân tích, đánh giá chứng cứ như trên, Hội đồng xét xử cần thiết phải căn cứ vào qui định tại Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải có nghĩa vụ trả số nợ 132.938.000đồng.
Về yêu cầu tính lãi, nguyên đơn không yêu cầu là do sự tự nguyện, vì vậy Hội đồng xét xử cần ghi nhận.
Về nghĩa vụ liên đới, ông Đ nợ tiền của nguyên đơn trong thời kỳ hôn nhân với bà Trần Thị Thu T1 vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ theo qui định tại Điều 27 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 để buộc bà T1 phải có nghĩa vụ liên đới trả số nợ 132.938.000đồng cho nguyên đơn là phù hợp.
Bị đơn có ý kiến xin trả dần cho đến khi hết nợ nhưng không được nguyên đơn đồng ý vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận ý kiến này.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận vì vậy bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có nghĩa vụ liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm được tính với số tiền 132.938.000đồng x 5% = 6.646.900đồng.
Trả lại số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 3.323.000đồng cho nguyên đơn theo biên lai thu số 0002232 ngày 24/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 357, Điều 430, Điều 440, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”.
Cụ thể tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị T về việc yêu cầu ông Trần Văn Đ và bà Trần Thị Thu T1 có nghĩa vụ liên đớn trả nợ theo hợp đồng mua bán tài sản, buộc ông Trần Văn Đ và bà Trần Thị Thu T1 phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị Th số tiền 132.938.000đồng.
Ghi nhận nguyên đơn không yêu cầu tính lãi.
“Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Trần Văn Đ và bà Trần Thị Thu T1 phải có nghĩa vụ liên đới chịu số tiền 6.646.900đồng.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị T1 số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 3.323.000đồng theo biên lai thu số 0002232 ngày 24/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt mà không có ủy quyền hợp lệ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
“Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7a,7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Bản án 99/2019/DS-ST ngày 15/08/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 99/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về