TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 99/2017/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2017 VỀ LY HÔN
Ngày 27 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 215/2017/TLST-HNGĐ ngày 27/4/2017 về tranh chấp “Ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2017/QĐXXST-DS ngày 28/8/2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Phương T, cư trú tại: Tổ E, thôn T, xã X, thành phố Đ.
- Bị đơn: Ông Trần Đức H, cư trú tại: thôn Đ, xã X, thành phố Đ.
(Bà T có mặt; ông H vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện,bản tự khai và trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn:
* Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, thành phố Đ vào ngày 10/5/2001. Hôn nhân tự nguyện có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại địa chỉ: thôn Đ, xã X, thành phố Đ. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông H không lo làm ăn, thường xuyên đánh bài, ăn nhậu, bà T nhiều lần khuyên can nhưng không được. Vì vậy vợ chồng thường xuyên cãi vã dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã sống ly thân từ đầu năm 2016. Nay tình cảm vợ chồng đã hết bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Trần Đức H.
* Về con chung: Bà T xác định có 02 con chung là cháu Trần Đức Hoài A sinh ngày 07/5/2001; cháu Trần Nguyễn Thảo N, sinh ngày 22/01/2005. Hiện nay cháu A đang học nội trú tại thành phố Hồ Chí Minh, cháu N đang ở cùng cô ruột tại địa chỉ: đường T, Phường B, thành phố Đ. Nguyện vọng khi ly hôn sẽ giao con cho bà T trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con mỗi con 1 tháng 2.000.000đ cho đến khi con chung đủ tuổi trưởng thành.
* Về tài sản chung: Các bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Về nợ chung: Không có.
Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng ông Trần Đức H không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình; cũng không đến Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật; về nội dung giải quyết vụ án căn cứ Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đề nghị Hội đồng xét xử, xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Phương T xin ly hôn ông Trần Đức H; giao con chung là hai cháu Trần Đức Hoài A sinh ngày 07/5/2001; cháu Trần Nguyễn Thảo N, sinh ngày 22/01/2005 cho bà T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành và buộc ông H cấp dưỡng nuôi con 4.000.000đ/tháng, cho đến khi trưởng thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng: Ngày 27/4/2017, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt thụ lý vụ án và gửi Thông báo thụ lý vụ án cho các đương sự nhưng ông Trần Đức H không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình. Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt cũng đã tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, giấy triệu tập đương sự ngày 01/6/2017 cho ông Trần Đức H; tiếp tục tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, giấy triệu tập đương sự ngày 09/6/2017 cho ông Trần Đức H, nhưng cả hai lần ông H đều không đến Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2017/QĐXXST-DS ngày 28/8/2017; tiến hành tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng ông Trần Đức H vẫn vắng mặt lần thứ hai mà không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan; vì vậy căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Về quan hệ hôn nhân: Điều kiện và quá trình kết hôn như bà T đã trình bày là hợp pháp, phù hợp với quy định tại các Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bà T cho rằng vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn do ông H không lo làm ăn, thường xuyên đánh bài, ăn nhậu, bà T nhiều lần khuyên can nhưng không được. Vì vậy vợ chồng thường xuyên cãi vã dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng; hiện nay hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau nữa bà T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn ông H.
Hội đồng xét xử xét thấy: Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông H xảy ra mâu thuẫn như bà T khai; vì hai bên đã sống ly thân hơn 01 năm qua mà hai bên cũng không còn quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau để cải thiện mối quan hệ vợ chồng; quá trình Tòa án thụ lý vụ án đến khi xét xử thì ông H cũng không có ý kiến gì thể hiện mong muốn được đoàn tụ hay không. Vì vậy việc vợ chồng bà T không còn quan tâm đến nhau là đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; việc bà T yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Về con chung: Từ khi ly thân đến nay, bà T là người chăm sóc, nuôi dưỡng con chung nên cần giao con chung là cháu Trần Đức Hoài A sinh ngày 07/5/2001 và cháu Trần Nguyễn Thảo N, sinh ngày 22/01/2005 cho bà T trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành là phù hợp với nguyện vọng của con chung (bút lục 21, 22) và phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các con chung nên buộc ông H cấp dưỡng nuôi 02 con chung mỗi tháng 4.000.000đ cho đến tuổi trưởng thành là phù hợp.
Về tài sản chung: Các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập.
Về nợ chung: Bà T xác định không có nên không xét đến.
Về án phí: Buộc các đương sự phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; các Điều 35, 39, 147, 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí;
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Phương T về việc “Xin ly hôn” ông Trần Đức H;
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Phương T được ly hôn ông Trần Đức H.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Đức Hoài A sinh ngày 07/5/2001 và cháu Trần Nguyễn Thảo N, sinh ngày 22/01/2005 cho bà T trực tiếp, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành và buộc ông Trần Đức H cấp dưỡng nuôi con 4.000.000đ/tháng (thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 11/2017).
Việc trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả theo mức lãi quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự.
3. Về án phí: Buộc bà Nguyễn Phương T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2015/0008318 ngày 26/4/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt (bà T đã nộp đủ). Buộc ông Trần Đức H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị đơn vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án (hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. /.
Bản án 99/2017/HNGĐ-ST ngày 27/09/2017 về ly hôn
Số hiệu: | 99/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về