TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 98/2021/HS-PT NGÀY 25/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 133/2020/TLPT-HS ngày 23 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Hữu T, sinh năm: 1984 tại Phú Thọ; nơi ĐKHKTT: Tổ 3, Khu 1A, phường V, thành phố V1, tỉnh Phú Thọ; chỗ ở: 223/19/24 đường T1, phường Q, tp. Q1, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình N, sinh năm 1947 và à Nguyễn Thị M, sinh năm 1958; vợ: Hoàng Thị Thúy V2, sinh năm 1985, con: Có 02 người, lớn nhất sinh năm 2012 và nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo ị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2020, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Thanh T2 - Luật sư Văn phòng luật sư Thanh T2, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bình Định bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu T theo luật định.
(Ngoài ra trong vụ án 02 bị cáo không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, không ị kháng nghị, Tòa án không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hữu T và Nguyễn Thế V3 là ạn è cùng quê tại phường V, thành phố V1, tỉnh Phú Thọ. Năm 2018, Nguyễn Hữu T vào thành phố Q1 sinh sống và làm việc. Đến khoảng đầu năm 2020, T rủ V3 vào Q1 tìm việc làm. Sau đó, T giới thiệu cho V3 làm việc tại quán cà phê X tại Trung tâm thương mại A, thành phố Q1.
Nguyễn Hữu T là người sử dụng ma túy, nên vào tháng 4/2020, T vào thành phố Hồ Chí Minh gặp một người thanh niên tên Công (không rõ nhân thân, lai lịch), iết đối tượng này án ma túy, T mua ma túy của Công đem về Q1 án kiếm lời và để có tiền tiếp tục sử dụng ma túy. Từ đầu tháng 4/2020 đến ngày 20/4/2020, T đã mua ma túy của Công 02 lần, với giá 185.000đ/viên MDMA và 8.500.000đ/“một hộp mười” Ketamine (8,816 gam). Tổng cộng T đã mua của Công số lượng ma túy gồm: “năm hộp mười” Ketamine (22,04 gam) và 100 viên MDMA hết: 52.500.000đ.
Sau khi đem ma túy về Q1, T đã gửi cho Nguyễn Thế V3 cất giữ 35 viên MDMA (khối lượng 12,8808g) và nhiều gói Ketamine (khối lượng 5.8158 gam) dặn V3 là khi nào T nhờ án thì án giúp cho T. Do có mối quan hệ quen iết và nể T là đồng hương đã giúp V3 tìm việc làm, nên V3 đã đồng ý giúp cho T án ma túy.
Trong thời gian đầu tháng 4/2020 Nguyễn Hữu T và Nguyễn Thế V3 quen iết với Trần Thị Hồng Q2 là lao động tự do và làm tiếp viên karaoke trên địa àn thành phố Q1. Biết được Q2 có nhu cầu mua ma túy về để sử dụng và án lại kiếm lời nên T đã án ma túy cho Q2 (theo kiểu gối đầu). T án cho Q2 với giá 230.000đ/viên MDMA, 3.500.000đ/“nửa hộp năm” Ketamine (2,204 gam), 5.500.000đ/“một hộp năm” Ketamine (4,408 gam) và 11.000.000đ/“một hộp mười” Ketamine (8,816 gam). Sau đó, với sự giúp sức của V3, nên T đã án 78 viên MDMA có khối lượng 29,0158 gam và 24,8316 gam Ketamine, thu 26.740.000đ, trong đó thu lợi 6.668.400đ cho Trần Thị Hồng Q2 như sau:
- Ngày 12/4/2020, án cho Trần Thị Hồng Q2 10 viên MDMA (3,68 gam) và “nửa hộp năm” Ketamine (2,204 gam), thu 5.800.000đ, thu lợi 1.825.000đ.
- Ngày 20/4/2020, án cho Trần Thị Hồng Q2 15 viên MDMA (5,52 gam), và “một hộp năm” Ketamine (4,408 gam), thu 8.950.000đ, thu lợi 1.925.000đ.
- Ngày 23/4/2020, án cho Trần Thị Hồng Q2 15 viên MDMA (5,52 gam), và “một hộp năm” Ketamine (4,408 gam), thu 8.950.000đ, thu lợi 1.925.000đ.
- Ngày 26/4/2020, án cho Trần Thị Hồng Q2 20 viên MDMA (7,36 gam), và “một hộp mười” Ketamine (8,816 gam), Q2 nợ 15.600.000đ.
- Ngày 27/4/2020, thông qua Nguyễn Thế V3 án cho Trần Thị Hồng Q2 05 viên MDMA (1,84 gam), thu 1.150.000đ, thu lợi 225.000đ (Q2 nhờ V3 đi án).
- Ngày 27/4/2020, thông qua Nguyễn Thế V3 án cho Trần Thị Hồng Q2 03 viên MDMA (1,104 gam) và 02 “chấm” (gói nhỏ) Ketamine (0,5876 gam), thu 1.890.0004 thu lợi 768.400đ.
- Ngày 28/4/2020, thông qua Nguyễn Thế V3 án cho Trần Thị Hồng Q2 10 viên MDMA (3,68 gam) và “một hộp năm” Ketamine (4,408 gam). Q2 mang đi án thì ị ắt quả tang.
- Ngày 15/4/2020, án cho một thanh niên lạ 02 viên MDMA (0,736 gam) và 01 “chấm” (gói nhỏ) Ketamine (0,2938 gam), thu 1.400.000đ, thu lợi 791.000đ.
Tổng cộng Nguyễn Hữu T khai nhận đã án 80 viên MDMA (29,7518 gam) và 25,1254 gam Ketamine thu 28.140.000đ, thu lợi 7.459.400đ. Ngày 28/4/2020, Cơ quan điều tra khám xét nơi ở của Nguyễn Thế V3, thu giữ 17 viên MDMA (5,945 gam) và 0,8202 gam Ketamine do T gửi cho V3. Còn lại thì Nguyễn Hữu T đã sử dụng hết.
Đối với Trần Thị Hồng Q2, qua điều tra xác định được Trần Thị Hồng Q2 có hành vi mua, bán ma túy như sau:
Bản thân Q2 là người sử dụng ma túy và do quen iết với nhiều người có nhu cầu sử dụng ma túy trong những lần đi làm tiếp viên, nên Q2 nảy sinh ý định mua ma túy của T án lại kiếm lời và để có tiền sử dụng ma túy cũng như tiêu xài cá nhân. Q2 thỏa thuận với T về giá tiền và hình thức mua ma túy gối đầu như trên. Tổng cộng Q2 đã mua của Nguyễn Hữu T 78 viên MDMA có khối lượng 29,0158 gam và 24,8316 gam Ketamine với số tiền 26.740.000đ. Sau khi mua ma túy của T, Q2 vừa sử dụng và khai đã án ma túy cho các đối tượng như sau:
- Ngày 27/4/2020, án cho một người tên “Bin Nguyễn” (Cơ quan điều tra không xác định được nhân thân, nên không lấy được lời khai) 20 viên MDMA và “một hộp mười” Ketamine.
- Từ giữa tháng 4/2020 đến ngày 28/4/2020, án cho một người nữ tên “Susan” Vĩnh (Cơ quan điều tra không xác định được nhân thân, nên không lấy được lời khai) 17 viên MDMA và “một hộp năm” Ketamine.
- Trong 02 ngày 24/4/2020 và 26/4/2020, án cho một người nam tên là “Tý” (Cơ quan điều tra không xác định được nhân thân, nên không lấy được lời khai) 08 viên MDMA.
- Ngày 27/4/2020, thông qua Nguyễn Thế V3 án cho một người khách lạ mặt 5 viên MDMA (1,84 gam), thu 1.500.000đ. Q2 cho V3 100.000đ.
- Ngày 28/4/2020, khi Q2 đi giao ma túy tại trước số nhà 221 đường C, phường N1, tp. Q1, tỉnh Bình Định, thì ị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Định ắt quả tang Q2 đang cất giữ 10 viên MDMA (3,68 gam) và “một hộp năm” Ketamine (4,408 gam) mục đích là để đem đi án cho một người tên “Bin Nguyễn” nhưng chưa kịp giao thì ị Công an ắt quả tang.
Sau đó, Cơ quan điều tra khám xét nơi ở trọ của Q2, thu giữ 35 viên MDMA, khối lượng 13,044 gam và 2,6512 gam Ketamine. Q2 khai nhận 2,6512 gam Ketamine và 15 viên MDMA là mua của Nguyễn Hữu T, đã án và sử dụng còn lại, còn 20 viên MDMA thì Q2 khai mua của một người không rõ lai lịch tại tp. Hồ Chí Minh vào đầu tháng 4/2020. Số ma túy này Q2 khai cất giữ nhằm mục đích để sử dụng và án cho người khác.
Như vậy, Trần Thị Hồng Q2 đã khai từ ngày 24/4/2020 đến 28/4/2020 đã án 50 viên MDMA (18,4 gam) và 13,224 gam Ketamine, thu 31.840.000đ, thu lợi 5.000.000đ. Tuy nhiên, trong số những đối tượng đã mua ma túy mà Q2 đã khai, thi Cơ quan điều tra chỉ chứng minh được Nguyễn Thế V3 là đối tượng đã giúp Q2 thực hiện việc án 01 lần 5 viên MDMA (1,84 gam) thu 1.500.000đ, thu lợi 250.000 đồng, số ma túy án cho những người không xác định được lai lịch nên không truy tố.
Đối với Nguyễn Thế V3: Tổng cộng số ma túy T đưa cho V3 cất giữ và án giúp T là 35 viên MDMA (12,8808 gam) và nhiều gói Ketamine (5,8158 gam). V3 đã án như sau:
- Ngày 27/4/2020, Trần Thị Hồng Q2 ảo V3 đem 05 viên MDMA (1,84 gam) đi án cho một thanh niên lạ mặt tại trước khách sạn S, đường X1, thành phố Q1, lấy 1.500.000đ mang về đưa cho Q2, Q2 cho V3 100.000đ.
- Tối ngày 27/4/2020, án cho Trần Thị Hồng Q2 03 viên MDMA (1,104 gam) và 02 “chấm” (gói nhỏ) Ketamine (0,5876 gam).
- Chiều ngày 28/4/2020, án cho Trần Thị Hồng Q2 10 viên MDMA (3,9918 gam) và “một hộp năm” Ketamine (4,408 gam). Q2 mang đi án ị ắt quả tang.
Khám xét quán cafe X nơi làm việc của V3, Cơ quan điều tra thu giữ 17 viên MDMA (5,945 gam) và 0,8202 gam Ketamine còn lại.
Như vậy Nguyễn Thế V3 đã án 18 viên MDMA, khối lượng 6,9358 gam và 4,9956 gam Ketamine, thu lợi 100.000đ. Số ma túy cất giữ là 17 viên MDMA (5,945 gam) và 0,8202 gam Ketamine nhằm mục đích là để án.
Tại ản Cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 22/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T, Trần Thị Hồng Q2 và Nguyễn Thế V3 về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, trong đó Nguyễn Hữu T ị truy tố theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 BLHS, Trần Thị Hồng Q2 và Nguyễn Thế V3 bị truy tố theo quy định tại điểm , p khoản 2 Điều 251 BLHS.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:
Tuyên ố: Bị cáo Nguyễn Hữu T, phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu T 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/4/2020.
Ngoài ra, ản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thế V3 và bị cáo Trần Thị Hồng Q2, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 27/11/2020, bị cáo Nguyễn Hữu T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà N ng phát iểu đề nghị giữ nguyên ản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội mua án ma túy là đúng pháp luật, tuy nhiên hình phạt 16 năm tù là nặng. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, số lượng ma túy không lớn, thu lợi nhỏ, thành khẩn khai áo, gia đình có công cách mạng; đề nghị Hội đồng xét xử giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà ản án sơ thẩm đã qui kết uộc tội, phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án đã chứng minh tại phiên tòa, từ đó có đủ cơ sở xác định: Nguyễn Hữu T cùng với Nguyễn Thế V3 và Trần Thị Hồng Q2 để có tiền sử dụng ma túy và tiêu xài cá nhân nên trong khoảng thời gian từ đầu tháng 4.2020 đến ngày 28.4.2020, bị cáo đã có hành vi án ma túy cho những người khác để kiếm lời. Nguyễn Hữu T đã mua “năm hộp mười” Ketamine (22,04 gam) và 100 viên MDMA. T đã trực tiếp án và thông qua Nguyễn Thế V3 để án ma túy cho Trần Thị Hồng Q2 07 lần với 78 viên MDMA có khối lượng 28,704 gam và 24,8316 gam Ketamine, thu được số tiền 26.740.000đ, thu lợi 6.668.000đ. Ngoài ra, T còn phải chịu trách nhiệm về số ma túy khám xét thu giữ được của Nguyễn Thế V3 là 17 viên MDMA (5,945 gam) và 0,8202 gam Ketamine. Tổng cộng khối lượng ma túy đã án mà Nguyễn Hữu T phải chịu trách nhiệm là 34,649 gam MDMA và 25,6518 gam Ketamine, số ma túy còn lại bị cáo còn án cho một số người khác không xác định được lai lịch và sử dụng hết.
[2] Hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu T đã phạm tội: “Mua án trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự như bản án sơ thẩm đã qui kết là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo và xử phạt 16 năm tù là không nặng, tương xứng với tính chất và mức độ, hậu quả hành vi phạm tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có cơ sở giảm hình phạt cho bị cáo.
[4] Các quyết định khác của ản án sơ thẩm không có kháng cáo, không ị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu T.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 16/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/4/2020.
2. Án phí hình sự phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000đ.
3. Các quyết định khác của ản án sơ thẩm không có kháng cáo, không ị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 98/2021/HS-PT ngày 25/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 98/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về