TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU- TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 98/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 104/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:
Phạm Ngọc N, sinh ngày 22/3/1995 tại tỉnh Đồng Nai;
Nơi đăng ký thường trú: Ấp L, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Nơi ở: không ổn định;
Nghề nghiệp: Không;
Trình độ học vấn: 06/12;
Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không;
Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam;
Họ tên cha: Phạm Ngọc T, đã chết.
Họ tên mẹ: Phạm Thị T, sinh năm 1954 (còn sống).
Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, Tiền sự: Không. Nhân thân:
Ngày 12/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu xử phạt 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Án phí HSST phải nộp 100.000 đồng, án phí DSST phải nộp 200.000 đồng. Bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 20/12/2013 và đã thi hành xong về án phí ngày 17/9/2014.
Ngày 21/11/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và phải nộp án phí HSST là 200.000 đồng. Bị cáo thi hành xong án phạt tù ngày 26/01/2018 và đã nộp án phí xong ngày 8/9/2016;
Bị bắt, tạm giữ từ ngày 04/8/2020, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ của Công an huyện Vĩnh Cửu.
* Bị hại: Anh Trần Văn L, sinh năm 1968; Địa chỉ: Ấp L, xã P, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
* Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Anh Phan Văn T, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ấp 4, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
* Người làm chứng: Phan Hoàng G, sinh năm 1982. Địa chỉ: Ấp L, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai.
Bị cáo và anh Phan Văn T có mặt tham gia phiên tòa; những người tham gia tố tụng khác vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 01/8/2020, anh Trần Văn L điều khiển xe mô tô biển số 60Z6-VVVV đến dựng trước nhà anh Phan Hoàng Giang tại ấp Lý Lịch 2, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai để đi làm. Đến 15 giờ 30 phút cùng ngày, Phạm Ngọc N nhìn thấy chiếc xe mô tô dựng trong sân nhà anh G, không có người trông coi nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt. N đi đến chỗ dựng xe thấy chìa khóa cắm ở ổ điện, N lên xe nổ máy chạy đi đến nhà anh Phan VănT ở ấp 4, xã P để cầm xe mô tô biển số 60Z6- VVVV. Ông T có hỏi N về nguồn gốc xe và giấy tờ xe, N trả lời là xe của mình và hẹn hôm sau mang giấy tờ qua chuộc. Anh T cầm xe mô tô biển số 60Z6- VVVV với số tiền 400.000đ. Có tiền, N dùng 200.000đ mua ma túy sử dụng, còn 200.000đ tiêu xài cá nhân hết.
Đến 17 giờ cùng ngày, anh L đi làm về phát hiện mất xe nên trình báo Công an. Nhận được tin báo vụ mất xe mô tô biển số 60Z6-VVVV, Công an xã Phú Lý truy xét, phát hiện xe mô tô biển số 60Z6-VVVV tại nhà ông T nên đã tiến hành thu giữ và chuyển cho Cơ quan điều tra để xử lý theo thẩm quyền. Ngày 04/8/2020 Phạm Ngọc N ra đầu thú tại Công an huyện Vĩnh Cửu.
Tại Kết luận định giá tài sản số 131/KL-ĐGTS ngày 07/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Vĩnh Cửu kết luận xe mô tô biển số 60Z6- VVVV trị giá 7.000.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu đã giao trả xe cho anh L.
Tại bản Cáo trạng số: 107/CT-VKSVC ngày 05 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu để xét xử Phạm Ngọc N về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Ngọc N từ 10 đến 12 tháng tù và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo luật định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 01/8/2020 tại ấp Lý Lịch 2, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của anh Trần Văn L, Phạm Ngọc N đã lén lút chiếm đoạt của anh L chiếc xe mô tô biển số 60Z6-VVVV trị giá 7.000.000 đồng. Như vậy bị cáo Phạm Ngọc N đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác nên cần xử phạt bị cáo một mức án đủ nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành những người công dân tốt, sống tôn trọng pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung.
[2] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Tuy nhiên bị cáo đầu thú và trong quá trình điều tra cũng như tại tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã kịp thời thu hồi trả cho bị hại, gây thiệt hại không lớn nên Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[3] Về dân sự: Anh Trần Văn L đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường gì thêm. Anh Phan Văn T không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 400.000 đồng mà anh T đã cầm xe nên Hội đồng xét xử không phải xem xét giải quyết.
[4] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Về việc xét xử vắng mặt và quyền kháng cáo: Bị hại vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho bị hại Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập tới tham gia phiên tòa. Đồng thời, việc vắng mặt của bị hại không trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử áp dụng điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bị hại và quyền kháng cáo của những người này được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
[6] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng quy định của pháp luật. Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc N: 01 (một) năm tù; Thời hạn tù được tính từ ngày 04 tháng 8 năm 2020.
2. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Phạm Ngọc N phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
3. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 98/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 98/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về