TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 98/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 577/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2020/QĐST- HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị Thu T, sinh năm 1991:
Địa chỉ: Số 58/5 đường N, phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Duy D, sinh năm 1991:
Cùng địa chỉ: Số 935/7/29A đường B, phường 10, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khơi kiên, bản tự khai nguyên đơn bà Đỗ Thị Thu T trình bày:
Bà Đỗ Thị Thu T và ông Nguyễn Duy D tự nguyện chung sống vào năm 2012, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn vào ngày 9 tháng 4 năm 2018 tại UBND phường 10, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Quá trình chung sống hạnh phúc đến khi sinh con thì ông bà đã sống ly thân do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống, ông D không chia sẻ quan tâm đến việc nuôi con và không trợ cấp tiền để nuôi con. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Duy D.
Về con chung: Có 01 con là cháu Nguyễn Duy Thiên Q, sinh ngày 10-6- 2019, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác nhận không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Nguyễn Duy D:
Tòa án tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng nhưng ông D vẫn vắng mặt nên Tòa án không thu thập được ý kiến trình bày của ông D. Theo xác nhận của Công an phường 10, thành phố V hiện nay ông D có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số 935/7/29A đường B, phường 10, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu phát biểu quan điểm:
Về trình tự thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ nhưng có đơn đề nghị vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt các đương sự là đúng theo quy định.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về án phí nguyên đơn phải nộp toàn bộ theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục, thẩm quyền giải quyết vụ án:
Theo nội dung đơn khởi kiện có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đang cư trú tại thành phố V nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tòa án triệu tập hợp lệ các đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng nguyên đơn, bị đơn đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, Tòa án vẫn tiến hành xét xử trong trường hợp vắng mặt các đương sự theo điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét về quan hệ hôn nhân:
Bà T và ông D tự nguyện chung sống từ năm 2018, có đăng ký kết hôn theo quy định được UBND phường 10, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 09-04-2018. Qua thời gian chung sống giữa hai ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống dẫn đến tự sống ly thân. Trong thời gian ly thân ông D không quan tâm đến con cái và không hỗ trợ tài chính cho bà T nuôi con. Mặt khác tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 30-9-2020 ông D đồng ý ly hôn. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T, ông D đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung không thể kéo dài, không có sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Vì vậy cần áp dụng 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho bà T được ly hôn với ông D.
[2.2] Về con chung:
Bà T, ông D có 01 con là cháu Nguyễn Duy Thiên Q, sinh ngày 10-6- 2019. Bà T yêu cầu được nuôi con và ông D nhất trí giao con chung cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi), bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện và phù hợp pháp luật nên công nhận.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung:
Bà T, ông D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí:
Do bà T là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. ông D không phải chịu án phí.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luât Hôn nhân và gia đinh.
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị Thu T đối với ông Nguyễn Duy D về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị Thu T được ly hôn với ông Nguyễn Duy D.
2. Về con chung: Có 01 con là cháu Nguyễn Duy Thiên Q, sinh ngày 10- 6-2019. Bà Đỗ Thị Thu T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Duy Thiên Q, sinh ngày 10-6-2019 đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Công nhận sự tự nguyện của bà Đỗ Thị Thu T về việc không yêu cầu ông Nguyễn Duy D cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, ông Nguyễn Duy D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Đỗ Thị Thu T và ông Nguyễn Duy D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Bà Đỗ Thị Thu T phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002053 ngày 10 tháng 7 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Như vậy, bà Đỗ Thị Thu T đã nộp xong án phí. Ông Nguyễn Duy D không phải chịu án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Bà Đỗ Thị Thu T và ông Nguyễn Duy D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
6. Về quyền yêu cầu thi hành: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 98/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 98/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về