Bản án 98/2020/HNGĐ-ST ngày 15/10/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 98/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 15 tháng 10 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” thụ lý số 359/2020/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 299/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2020, và Quyết định Hoãn phiên tòa số 199/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 06 tháng 10 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Phạm Thị Tuyết A (tên gọi khác: T), địa chỉ: XX, ấp B, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (có mặt)

2. Bị đơn: Nguyễn Văn P, địa chỉ: XX, ấp B, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03 tháng 8 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà Phạm Thị Tuyết A trình bày: Giữa nguyên đơn với bị đơn là ông Nguyễn Văn P kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện từ năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ theo giấy chứng nhận kết hôn cấp ngày 17 tháng 10 năm 2009. Vợ chồng có 02 người con chung là Nguyễn Trí T sinh ngày 29/11/2010 và Nguyễn Phương L sinh ngày 03/7/2012. Quá trình chung sống do ông P thường xuyên rượu chè, đánh vợ con, nên cuộc sống chung không có hạnh phúc; vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nay bà A xin ly hôn ông P; về con chung bà A yêu cầu giải quyết theo nguyện vọng của con muốn ở với ai thì người đó nuôi, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng; về tài sản chung và nợ, bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với bị đơn là ông Nguyễn Văn P, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông P nhưng ông P không có ý kiến trả lời, cũng không đến Tòa án để cung cấp lời khai và tham gia các phiên hòa giải.

Ý kiến của Viện Kiểm sát: Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nhận xét về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nhìn chung đều thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn và áp dụng các Điều 81 và 82 của Luật Hôn nhân và gia đình giao 02 con chung chưa thành niên cho bà A trực tiếp nuôi, ghi nhận sự tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng của bà A.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông Nguyễn Văn P là bị đơn trong vụ án mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án, theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà A và ông P xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, bà A nhận thấy vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do gần đây ông P thường xuyên rượu chè, không quan tâm gia đình, vợ con, thậm chí còn có đánh nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, nên bà A yêu cầu ly hôn ông P. Riêng về phía ông P, Tòa án đã triệu tập tham dự các phiên hòa giải ông đều vắng mặt, điều này cho thấy Tòa án đã tạo điều kiện thuận lợi để vợ chồng có cơ hội hàn gắn, đoàn tụ, nhưng ông P tỏ ra không quan tâm đến, không có thiện chí hợp tác. Tòa án đã xác minh ở chính quyền địa phương để tìm hiểu nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng nhưng địa phương không nắm được. Hội đồng xét xử thấy rằng, quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên, nay bà A kiên quyết yêu cầu ly hôn, ông P thì không có thiện chí hợp tác để hàn gắn. Xét thấy mục đích hôn nhân của ông bà không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà A.

[3] Về con chung: Bà A và ông P có 02 người con chung hiện đang sống chung cha mẹ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã trực tiếp hỏi nguyện vọng của con chung chưa thành niên trên 07 tuổi là cháu Nguyễn Trí T và Nguyễn Phương L thì cả hai cháu đều cho biết nguyện vọng muốn được ở với mẹ nếu cha mẹ phải ly hôn. Xét thấy cần tôn trọng nguyện vọng của các cháu và để tạo điều kiện cho 02 cháu được sống gần gũi nhau, nên cần giao cả 02 cháu T và L cho bà A để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành. Ông P không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền thăm nom con, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con theo quy định tại các Điều 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Về vấn đề cấp dưỡng, trên cơ sở tự nguyện của bà A không yêu cầu cấp dưỡng, Hội đồng xét xử ghi nhận và không buộc ông P phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung và nợ: Bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết, ông P không có yêu cầu phản tố, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét..

[5] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Về quyền kháng cáo của đương sự được thực hiện theo quy định tại các Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, các Điều 147, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án ly hôn và được giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Tuyết A được ly hôn ông Nguyễn Văn P.

- Về con chung: Giao 02 cháu Nguyễn Trí T sinh ngày 29/11/2010 và Nguyễn Phương L sinh ngày 03/7/2012 cho bà Phạm Thị Tuyết A để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành; ông Nguyễn Văn P không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà A tự nguyện không yêu cầu được ghi nhận. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho ông P, không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

2. Về án phí: Bà Phạm Thị Tuyết A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ hết vào số tiền tạm ứng án phí bà A đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004336, ngày 06/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 98/2020/HNGĐ-ST ngày 15/10/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:98/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về